Ông thuộc lớp người kháng chiến, tháng năm dài bám cứ, bám rừng. Ông là chứng nhân của một thời kỳ chiến tranh khốc liệt mà cũng thật hào hùng ở vùng đất Tây Nguyên, lại là chứng nhân một giai đoạn rất đáng nhớ của đất nước - giai đoạn bản lề đổi mới, từ tập trung, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường…
Đôi ba lần, tôi nhận ra ông, ngồi cắt tóc ở quán ông già gốc Bắc, ngay lề đường Nguyễn Công Trứ, đoạn bên hông Nhà Văn hóa Thanh Thiếu nhi tỉnh. Tiệm cắt tóc vỉa hè “lộ thiên”, dưới tán cây muồng hoa vàng cổ thụ. Một chiếc ghế xếp, một cái gương hình chữ nhật treo vào thân cây với hộp đồ nghề nhỏ gọn. Ông già cắt tóc bốn mùa đội mũ cát, đeo cặp kính trắng dày, áo bà ba màu cháo lòng hình như may bằng thứ vải đũi, quần vải ống rộng màu thẫm… Còn vị khách, mắt cận, dáng gầy, như một công chức có tuổi hay một ông già nào đấy ở cái thị xã miền cao nguyên khoáng đạt này…
Vị khách, đôi ba lần ấy, là Bí thư Tỉnh ủy Huỳnh Văn Cần, tên thường gọi: Chín Cần.
Ông có đến 2 giai đoạn đảm nhận Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, và 1 nhiệm kỳ Bí thư Thị ủy Buôn Ma Thuột. Kỳ đầu, thời chiến tranh, ở “cứ”, từ tháng 10.1971 đến tháng 5.1975. Kỳ thứ 2, từ 1986 đến 1994, trọn tháng năm đầu đất nước đổi mới, từ tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Thời ấy, dưới mắt người dân, Bí thư Tỉnh ủy là yếu nhân, một bước xe đưa, hai bước xe đón, lại còn người tháp tùng, kẻ bảo vệ. Nhưng ở ông, hình như chưa hoặc khó hình thành thói quen quan chức - yếu nhân ấy. Người dân vẫn bắt gặp ông dép đúc, mũ vải, ngày cuối tuần lững thững dạo bộ, khi nơi chợ trung tâm, khi mấy con phố nhỏ.
Ông Chín Cần (bên phải) và tác giả. Ảnh: Tác giả cung cấp
Nhiều năm, dịp cận Tết ta, ông dẫn đầu đoàn lãnh đạo tỉnh đi kiểm tra tình hình, thăm và chúc tết cán bộ, chiến sĩ đơn vị biên phòng, đồng bào vùng biên giới. Tôi may mắn một vài lần được theo đoàn. Ông có sức làm việc thật dẻo dai, lại có tác phong cụ thể. Mỗi chuyến công tác thường kéo dài 2 đến 3 ngày, mà đường sá ngày đó, suốt từ Đồn 1 biên phòng giáp với Gia Lai đến Đồn 11 giáp Bình Phước, cực xấu. Đến nơi, mọi người đều ê ẩm, có người còn ngà nghệt, ngáp vắn ngáp dài, nhưng ông không hề tỏ ra có chút mệt mỏi. Nghe báo cáo, ghi chép; tham vấn ý kiến các thành viên trong đoàn công tác; thăm hỏi, động viên, chúc tết cán bộ chiến sĩ; kiểm tra hầm hào, hệ thống bố phòng, khu vực tăng gia sản xuất… Một lần từ Đồn 3 chuẩn bị vượt sông Sê-rê-pôk sang Đồn 4, mọi người phát hiện đàn bò rừng phải đến ba chục con phía trước. Có anh đi xe đầu nhảy xuống, giương khẩu AK 47 ngắm nghía. Ông lập tức lệnh cho cả đoàn dừng xe, chờ đoàn bò qua đường, mất hút trong khoảng rừng khộp phía xa mới tiếp tục hành trình.
Với mọi người trong đoàn, chuyến công tác kết thúc khi hoàn thành nội dung công việc ở điểm cuối phía tuyến biên giới phía Nam thuộc địa phận tỉnh Đắk Nông bây giờ, nhưng với ông Chín Cần, còn kéo dài thêm đôi ba ngày nữa. Trên xe của ông, đã chuẩn bị sẵn mấy tạ gạo cùng mắm muối, cá khô, thuốc rê… Ông đến thăm, chúc tết bà con người M’nông, Mạ mấy bon thuộc vùng căn cứ kháng chiến cũ…
Ông yêu thơ và quý anh em văn nghệ. Thời ông làm Bí thư Tỉnh ủy (1986-1994), không khí văn nghệ Đắk Lắk rôm rả phết. Trong giai đoạn đó, Hội Văn nghệ Đắk Lắk được thành lập, tiến hành Đại hội lần thứ nhất (tháng 9.1990). Mấy lần tôi gặp ông ở trụ sở Hội Văn nghệ trên đường Điện Biên Phủ, có khi thăm hỏi, trò chuyện với anh em, có khi gửi thơ đăng trên Tạp chí Chư Yang Sin.
Có lần, dịp cuối năm, Nhà Văn hóa Thanh Thiếu nhi tỉnh có cuộc sinh hoạt cộng tác viên. Ông đi bộ từ nhà riêng đến, kéo chiếc ghế ngồi cùng mấy anh em văn nghệ, vui vẻ thăm hỏi, góp chuyện. Hồi ấy tôi đang là phóng viên Báo Đắk Lắk. Thấy ông đang vui, tôi kéo ghế ngồi gần ông, và nói: Chú cho cháu… kế cận chú (!) Mấy anh em văn nghệ hơi bị hoảng vì cái kiểu bạo miệng tếu táo của tôi, nhưng ông hiểu, cười khà khà…
Chuyện này nữa. Sau Đại hội Hội Văn nghệ, ngày mùng một Tết Tân Mùi - 1991, ông cùng cán bộ Văn phòng Tỉnh ủy xông đất Văn phòng Hội Văn nghệ. Không điện thoại báo trước, ông Bí thư Tỉnh ủy đẩy cửa bước vào. Đi từ tầng trệt đến tầng lầu chẳng có một ai. Lên tầng nữa, gặp nhà thơ Phạm Doanh, Phó Chủ tịch Hội, cùng cậu con trai, “bố giường con võng” đón Xuân… suông. “Tức cảnh sinh tình”, vị Bí thư Tỉnh ủy “khai bút”: Đầu năm thăm Hội Nhà văn/ Cửa nhà vắng ngắt, văn nhân đâu rồi?/ Leo cầu thang gác tới nơi/ Gõ cửa. Cửa mở: đây rồi Phạm Doanh!/ Bố giường, con võng nằm khoanh/ Đón xuân cũng chỉ quây quần con, cha!/ Xuân mang vui tới mọi nhà/ Riêng anh khép cửa. Mình ta gieo vần.
Sau Tết, anh em văn nghệ gặp nhau, nhà thơ Phạm Doanh kể lại câu chuyện và phô với mọi người mấy dòng thơ chép tay màu mực còn tươi rói của vị Bí thư Tỉnh ủy. Nhận thấy câu chuyện không chỉ là thơ phú, mà trên hết là tình cảm, thể hiện sự đồng cảm của người lãnh đạo cao nhất của tỉnh với anh em văn nghệ tỉnh nhà, tôi xin chép bài thơ và sau đó đăng Báo Đắk Lắk, số đầu Xuân, kèm mấy dòng gọi là phi lộ.
Ông đã từng xuất bản tập thơ, khoảng trên dưới 20 bài. Thơ ông gần với lối thơ của những lớp người đi kháng chiến, tự sự, chân chất, có tính tranh đấu, “tải đạo”. Có lần, tại hội nghị của giới văn nghệ tổ chức ở Sở Văn hóa tỉnh, ông đến dự và phát biểu. Ông gay gắt phê bình khuynh hướng văn nghệ xa rời tính Đảng, xa rời hiện thực đời sống. Ông dẫn một bài thơ của nhà thơ Văn Thanh (hình như tên bài thơ là Tâm sự hay Tự sự gì đấy?). Tôi nhớ, có những câu: Tôi bây giờ như một quả trứng ung/ Đảng ấp suốt hai mươi năm không nở được/ Tôi tự vỗ cánh về phía trước… Ông nói, sao lại cứ đổ lỗi cho đảng. Lỗi tự mình chứ. Trứng ung, làm sao đảng ấp được, làm sao tự vỗ cánh được…
Nghe ông phê bình, ngẫm ra, chí lý thật.
Về nghiệp thơ văn, tôi có một kỷ niệm không quên.
Trên Báo Đắk Lắk, số Tết, đăng bài thơ Thơ cho con của tôi. Số báo ấy đầy đặn cả nội dung lẫn hình thức. Ra Tết, nhà báo Nguyễn Văn Nhị, Tổng Biên tập gọi tôi vào phòng, uống trà, rồi nhỏ nhẹ: Bí thư Tỉnh ủy có ý phê phán bài thơ của cậu. Ông phê bình tớ, lẽ ra không nên đăng bài thơ vào số Tết. Bài thơ có cái nhìn bi quan quá…
Nhà báo Nguyễn Văn Nhị là người tôi kính trọng, về NGHỀ và về NGƯỜI. Trong đời làm báo, tôi coi ông là người thầy về nghề nghiệp; học ở ông rất nhiều điều về lối ứng xử nhã nhặn, khiêm nhường, biết chấp nhận thực tế nghiệt ngã. Nghe ông nói, lúc đầu tôi cãi, biện hộ cho bài thơ của mình, cho rằng Bí thư Tỉnh ủy khắt khe quá. Nhưng nghe ông phân tích, tôi nhận thấy mình thật sự có lỗi. Có lỗi với thủ trưởng trực tiếp của mình. Có lỗi với Bí thư Tỉnh ủy. Vấn đề không phải đúng hay sai, mà là câu chuyện thời điểm, nên hay không nên. Bí thư Tỉnh ủy phê bình, nhắc nhở là có lý. Bài thơ là tâm trạng của anh viên chức - trí thức nghèo về cuộc sống hiện tại giai đoạn bao cấp chuyển sang thị trường với rất nhiều khó khăn, bí bách. Những ai từng sống qua giai đoạn này mới thấm tâm trạng đó. Đến giờ tôi vẫn không thôi tâm đắc bài thơ của mình. Bài thơ có những dòng, đoạn: “Con ơi con/ Khi con trưởng thành bố chưa chắc có nhà riêng/ Bởi công việc bố làm không dính dáng tiền nong kinh tế/ Bố không phải người có quyền có thế/ Chỉ với đồng lương làm sao cất được nhà”/… “Nhiều lúc bố buồn mình tồn tại mà chi/ Sự nghiệp thi thơ mây bay khói tỏa/ Bao nhiêu kẻ mặt mày hể hả/ Họ đâu cần chữ nghĩa với văn chương/… Bố cuốc đất trồng rau bên cạnh lề đường/ Mong rau tốt ngắt đủ ngày hai bữa/ Báo thì nói trẻ con cần thịt sữa/ Con đi trẻ rau dền về nhà gặp rau khoai”…
Đại loại thế.
Đúng là không nên đăng bài thơ này trong số Tết.
Giờ đây, cựu Bí thư Tỉnh ủy Huỳnh Văn Cần - Chín Cần và Nhà báo Nhị Hà - Nguyễn Văn Nhị, đều đã đi xa. Họ là người của một thời.
Nhiều khi nhìn cuộc đời trước mắt thấy vướng vất, lại nhớ về họ, người của một thời.
Uông Ngọc Dậu
Tạp chí Chư Yang Sin số 353+354 (tháng 1&2 năm 2022)
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0