"Ta đã quay về Tây Nguyên" đó là lời một bài hát của nhạc sĩ Văn Ký mà ba mình yêu thích, rất hay hát. Ông luôn khát khao một ngày được trở về quê hương đã xa cách, đến 1975 là 29 năm.
Tháng 3/1975. Tin chiến thắng Buôn Ma Thuột dội về khiến người Hà Nội ra đường đâu đâu cũng chỉ toàn thấy những nụ cười hớn hở. Radio tư nhân không có nhiều, nên chân cột loa công cộng nào chiều chiều cũng có các đám đông tụ tập nghe tin tức. Bài hát “Tây Nguyên giải phóng” của nhạc sỹ Kpă Púi với tiếng hát Kim Nhớ và “Đường chúng ta đi” của nhạc sỹ Huy Du do Doãn Tần hát, phát liên tục náo nức suốt đêm ngày trên loa sắt (Doãn Tần, Kim Nhớ, các bạn tôi giờ đều đã là người thiên cổ). Các Đoàn đều được lệnh chuẩn bị sẵn sàng để lên đường vào Nam. Khu học xá Quế Lâm của ba cũng đưa dần học sinh miền Nam về nước, địa phương nào về tỉnh đó. Các học sinh dân tộc được đưa về Thái Nguyên ở tạm, chờ phân loại và những quyết định mới.
Đoàn Ca múa Tây Nguyên chỉ có một tháng để chuẩn bị. Lãnh đạo lo chứ cá nhân chúng tôi chẳng có gì nhiều, vì mọi thứ được cấp phát cho chuyến đi Tây Nguyên dự kiến năm 1974 vẫn còn nguyên trong kho đấy. Chương trình biểu diễn đã có sẵn, nhưng đội ca cũng phải lên sàn tập múa, bởi có những diễn viên khi ấy không thể theo được. Mình thấp bé, lũn cũn tròn như cái nấm cũng phải vào kịch múa “Ché rượu diệt địch”. Mọi người đều đã mang theo sự chờ đợi trở về quê hương trong trĩu nặng trái tim, từ thuở mới biết chùi mũi và mặc áo quần đồng phục. Êban Quý, sau khi học trường Múa Việt Nam, không nhớ vì sao được điều về Đoàn Tổng cục chính trị. Nhưng lần này cũng trở lại đoàn để đi Tây Nguyên. Người bạn thân cùng giường, cùng học là Măng Thị Hội cũng đã tốt nghiệp xuất sắc Nhạc viện, trở nên nổi tiếng với hai bài hát Bóng cây knia (Phan Huỳnh Điều phổ thơ Ngọc Anh) và Bác Hồ sống mãi với Tây Nguyên (Lê Lôi phổ thơ Kpă Y Lăng), đã lấy chồng và về đoàn công tác. Vèo một cái mà đến 30/4 miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Ngày 10/5, gửi Mai Ly lại cho Lý Sol, mẹ và các em, mình theo đoàn Ca múa Tây Nguyên lên đường. Sau khi mình đi vài ngày, Đoàn Ca múa miền Nam cũng vào Sài Gòn. Chỉ có Lý Sol ở lại Hà Nội, vì được chọn đi học Huấn luyện múa ở Bungari.
Lá cờ đỏ cắm trước đầu xe Hải Âu phần phật xé gió lao đi. Chỉ dừng ăn, ngủ và chậm lại khi qua những đoạn đường xấu vì từng bị bom đạn phá. Khó nói được cảm xúc. Dường như ít người ngủ . Xe chạy thẳng qua cầu Hiền Lương, cả đoàn đập tay vào thành xe, la lên rầm rầm vì phấn khích. Đêm ngủ tại thành phố Đà Nẵng, trong một khu nhà, nói là khách sạn nhưng trống huếch đến lạ, không có điện. Khối đứa thò cổ ngắm ánh đèn chai lập lòe trên đường phố và nghe tiếng rao lắng mãi vẫn không hiểu là gì “Ho vi lô – Hột vịt lộn ”… Chẳng ảnh hưởng gì đến tâm trạng. Cho đến khi dừng ăn trưa ở thị xã An Khê. Các bạn quê Gia Lai đều khóc. Đinh Yên, nhạc công kèn T’rom pét đứng giữa đường Quốc lộ 19, giơ hai tay lên trời nhảy cẫng và hét tướng “Quê hương ơi, tui đây rồi”…
Chiều muộn ngày 14/5/1975, xe của đoàn dừng trước căn nhà gỗ hai tầng, rợp bóng hoa giấy đỏ, trên trục đường chính chạy vào thị xã Buôn Ma Thuột, địa chỉ tạm thời của Ban quân quản tỉnh Đăk Lăk ( nếu mình nhớ không nhầm là khu vực sở GD-ĐT bây giờ). Nhận phòng tại khách sạn Hoàng Gia trống rỗng, phải mang tăng võng trải xuống sàn làm chỗ ngủ. 4h sáng, cả đoàn đã chỉnh tề quân phục, lên xe để tham dự mít tinh mừng ngày hội non sông Thống nhất (diễn ra cùng lúc trên cả nước vào sáng ngày 15/5/1975), tại nơi đã mở màn cho chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đó là trận đánh lịch sử diễn ra ở thị xã Buôn Ma Thuột tháng 3/1975.
Tác giả cùng diễn viên trong Đoàn Ca múa Tây Nguyên tại Sư Đoàn 470 tháng 5-1975 (Ảnh NVCC)
Xe chạy rất chậm bởi từ các ngả đường qua Ngã Sáu Ban Mê, hàng đoàn người, biểu ngữ, cờ đỏ trên tay, hân hoan tiến vào sân vận động. Áo dài là các mẹ, các chị ở chợ và vùng ven. Thẳng hàng toàn màu xanh lá cây là bộ đội. Nhiều nhất là áo, khố, váy thổ cẩm đen, đỏ của bà con các buôn. (Sau này mình mới xác định được từ buôn Akŏ Siêr, buôn Akŏ Dhông, Alê A…) Chắc chắn khi ấy cả lũ chỉ đứng ngây ra mà nhìn, không có câu nào lọt vô tai. Vì không khí ấy náo nức quá, xúc động quá. Mà bà con thì “chiêm ngưỡng” đầy thán phục mấy chục đứa chúng mình, vừa đẹp vừa oai trong quân phục trắng ngà.
Cuộc mít tinh kết thúc, bà con còn diễu hành quanh các ngả đường nội thị, rồi mới tỏa về các cổng thị xã, trong cờ hoa rực rỡ và tiếng hoan hô tràn ngập phố phường. Bức ảnh đen trắng của nghệ sỹ Trần Cừ, chụp đoàn người diễu hành mang hình chữ S ở Ngã Sáu Ban Mê, chính là thời điểm đó.
Đêm ấy, chúng mình diễn buổi đầu tiên ở sân vận động, chưa bao giờ lượng người xem đông đến ngợp như thế. (lúc biểu diễn ở miền Bắc không được tụ hội đông người, vì sợ máy bay Mỹ ném bom). Giọng hát ai cũng dường như bay bổng hơn, cánh tay nghệ sỹ múa dẻo hơn. Tiết mục nào cũng được vỗ tay để diễn lại. Nhất là bài song ca “Trước ngày hội bắn” của ca sỹ A Dam Đài Son và mình, khi anh kéo chiếc dù xuống che hai người, chúng mình không thể rời sân khấu vì tiếng vỗ tay kéo dài. Sướng gì đâu ấy.
Mới có 2 tháng sau khi Buôn Ma Thuột im tiếng súng. Vậy mà thị xã đã trở lạị hoạt động bình thường. Nếu không có những bức tường đổ đó đây, tưởng chừng chẳng có một sự kiện thật to lớn, vang dội cả thế giới, hoàn thành việc thống nhất một đất nước bị chia cắt hơn 20 năm, vừa đi qua phố thị. Từ bancon các tầng của khách sạn Hoàng Gia, bây giờ là trụ sở của Hội VHNT tỉnh Đăk Lăk, chúng mình ngắm xe máy, xe đạp, ôtô và người nườm nượp, nghe giọng nói miền Nam nhưng khác tiếng Nam Bộ lẫn khu 5, ríu rít. Chợ đầy hàng hóa, đủ các loại bao bì màu sắc xanh đỏ vàng khác nhau, hoa cả mắt (bởi ở miền Bắc làm gì có nhiều hàng hóa mua bán tự do như thế). Rau củ dưới suối Đốc Học đưa lên xanh mươn mướt (chỉ chưa có hoa). Thịt bò, thịt nai rẻ hơn thịt heo. Ai trong đoàn cũng cố chọn cho mình một món quà thật lạ, thật cần thiết cho người thân ở quê lẫn còn ở miền Bắc (vì đã biết sẽ đi diễn cả ở Gia Lai – Kon Tum vài tháng nữa. Lạ là không ai mua búp bê nhé. Có lẽ người Tây Nguyên không biết chơi em bé giả?).
Nhớ nhất đêm diễn ở Khuê Ngọc Điền, ôtô chúng mình đậu bên suối để tài xế và phụ rửa xe. Rất nhiều bà con (đàn ông vẫn còn mặc khố), đến sờ vào thành xe để biết “cái nhà to biết chạy này chưa thấy bao giờ. Sao tới được đây hè?”. Họ nghe nói có văn công đến, phải đi từ khi con gà trống đuôi đỏ gáy lần đầu mới tới được điểm diễn. Có người rờ chân tay, thân hình diễn viên, hỏi có thật người Thượng không, sao đẹp trai đẹp gái thế? Khu căn cứ ít dân, nên diễn viên chúng mình cũng chỉ bằng số người xem. Diễn xong Đoàn còn tặng bà con vài cân bột ngọt đã chuẩn bị sẵn. Tình cảm rất quyến luyến, bởi đồng nghiệp của mình như đã được trở về buôn làng với cha mẹ mình vậy. Giọng nam trầm của ca sỹ Siu Phích dường như đắm đuối hơn trong ca khúc “Trở về Tây Nguyên” của nhạc sỹ Xuân Giao. Rằng “Ta đã quay về Tây Nguyên, với suối xưa trôi êm đềm. Đêm đêm vang tiếng đàn T’rưng, ngân nga trên khắp làng buôn…”
Đoàn ở lại Buôn Ma Thuột hơn một tháng, tỏa đi các huyện. Đến đâu diễn xong cũng được người dân nấu cháo gà cho ăn. Nói rõ đoàn có người nấu ăn khuya tại chỗ ở rồi, nhưng bà con vẫn bắt ăn xong mới cho về. Đang giữa mùa mưa, có lần diễn xong xe sa lầy, sáng ra một số diễn viên phải leo lên xe bò vàng dùng chở gỗ, về phố. Lần đầu tiên cả lũ được chiêm ngưỡng hai bên đường rừng đại ngàn hùng vĩ, cổ thụ xanh đến vô tận (các bạn đều tập kết ra Bắc lúc tuổi còn nhỏ. Hoặc như chúng mình, chưa bao giờ đến Tây Nguyên). Nhớ lúc giao lưu chuyên môn vô cùng thân thiết với các diễn viên mới tuyển của Đoàn Văn công Đăk Lăk (những Y Moan, Mạnh Trí, Mỹ Lệ, Quỳnh Như, Y Blé, Y Dôch, H’Doan, H’Boan… thuở ban đầu ngác ngơ ấy). Nhớ các bạn gái trai Ban Mê mới quen, dễ mến, chân tình, đi xem biểu diễn trong rạp Hòa Lạc ăn mặc lịch sự như đi dự dạ hội… Nhớ mấy bà má ghé vô khách sạn Hoàng Gia cho các con mấy chục đòn bánh tét ăn sáng. Nhớ cả ông cán bộ ban quân quản của phường nhắc nhở “Mấy anh chị không được phơi đồ trên ban công, mất mỹ quan đường phố”… Sao lại nhớ những điều nhỏ nhặt thế chứ?
Được nghỉ hai ngày, anh hai đang đi cơ sở, chú Y Wung, lúc đó làm Giám đốc Đài Phát thanh tỉnh, xin phép Đoàn đưa mình về quê . Tâm hồn thổn thức. Không chỉ vì ngày lên đường ba Y Ngông dặn dò rất kỹ, đau đáu nhắc phải ghi vào sổ “Nhà mình ở buôn Kmrơng, đi từ thị xã Buôn Ma Thuột qua Quảng Nhiêu thì hỏi thăm. Cô em út của ba tên thường gọi là ami H’Nhăp hay H’Drŏ. Nhưng con hỏi tên tục người ta không biết đâu, phong tục của người Êđê mình khi có con thì gọi theo tên con thôi”…. Mà còn vì nỗi buồn gần 30 năm ba chưa được về quê, nhưng ông bà thì đã bay tới chốn yang atâu tự thuở nào, không tìm được phần mộ (theo tập quán bỏ mả của tộc người)… Cả sự nghẹn ngào rất vô cớ vì con đường về buôn đất đỏ au mịn màng, rải kín những cánh hoa muồng nho nhỏ như một tấm thảm vàng chào đón. Lần đầu tiên mình chứng kiến sự sẻ chia của mọi người trong buôn, khi chiếc nia to để trước của nhà dài của cô, cứ đầy mãi lên nào gà, gạo, rau, bắp, chuối… theo tiếng gọi nhau cứ lan lan nhanh trong buôn “Y Wung, anak Y Ngông wit leh, wit leh... - Y Wung với con Y Ngông về rồi, về rồi”. Và hàng ché rượu cần mỗi lúc một buộc dài trên sàn trong tiếng ching knah sầm sập. Ôi! Ban Mê thương yêu. Những ngày đầu tiên đâu dễ ai quên.
Một ngày ở lại buôn, uống rượu cần và nghe cô kể chuyện bà và cô bị địch truy đuổi vì nhà có người tập kết ra Bắc, phải trốn chui trốn nhủi vào rừng. Bà ốm chết trong rừng, giờ không biết tìm mộ nơi nào…
H’Linh Niê
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0