Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh qua những sáng tác văn học của Người
Ngày đăng: 12/05/2023 15:28
- Lượt xem: 3006
- Thích
Ngày đăng: 12/05/2023 15:28
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Tên tuổi và sự nghiệp của Người gắn liền với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc ta trong thế kỷ XX cũng như cuộc sống của nhân dân hôm nay. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta một di sản tinh thần vô giá, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một khái niệm chỉ một hệ thống gồm nhiều phạm trù tư tưởng khác nhau như: Tư tưởng nhân văn, tư tưởng triết học, tư tưởng chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh lại được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhiều phương diện hoạt động thực tiễn của Bác, vì vậy, chúng ta có: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền cách mạng, về xây dựng lực lượng vũ trang, về công tác thanh niên vv…
Nói tư tưởng Hồ Chí Minh là sự hợp thành của tư tưởng triết học, tư tưởng chính trị và tư tưởng nhân văn thì phải thấy rằng, tư tưởng nhân văn là cái gốc sâu xa nhất trong hoạt động tư tưởng của Người. Bác nói: “ Hiểu chủ nghĩa Mác – Lê nin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lê nin được”(1). Như thế nghĩa là: Tư tưởng nhân văn là cái gốc tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh. Người lại nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những gì tôi hiểu” (2). Ta hiểu rằng, mục đích, động cơ cuộc đời hoạt động chính trị của Bác cũng xuất phát từ tư tưởng nhân văn.Tư tưởng nhân văn là cái gốc chính trị của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng nhân văn là một khái niệm biểu hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới (tự nhiên và xã hội) trên phương diện đạo đức và thẩm mỹ, lấy giá trị chân - thiện - mỹ của con người làm trung tâm (3). Tư tưởng nhân văn được thể hiện ở các phương diện chủ yếu sau: Yêu thương, đồng cảm với những số phận bi kịch, đau khổ của con người; ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người; khẳng định những khát vọng chính đáng của con người; đấu thanh chống lại những thế lực đen tối, tàn bạo chà đạp cuộc sống, phẩm giá của con người.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống văn hóa, nhân văn của dân tộc. Đó là truyền thống đạo lý “Thương người như thể thương thân” được vun đắp trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh còn có nguồn gốc từ phẩm chất cá nhân, từ bản chất nhân ái sâu xa của con người Bác. Có thương người, thương đời sâu sắc, mạnh mẽ, Bác mới quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân khi mới tròn 21 tuổi đời. Trong suốt cuộc đời, Bác luôn được mọi người yêu mến, kính trọng và gần gũi cũng vì Người luôn yêu mến, quý trọng, gần gũi và giúp đỡ mọi người. Đồng chí Trường Chinh cho rằng “Một điểm nổi bật nhất trong đạo đức Hồ Chủ tịch là lòng thương người” (4). Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng nói: “Lòng Hồ Chủ tịch rộng như biển cả, bao dung, cảm hóa tất cả mọi người, dìu dắt mọi người đoàn kết chiến đấu”(5). Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh còn được bồi đắp bởi tinh hoa văn hóa nhân loại từ phương Đông đến phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lê nin và tinh thần nhân đạo cộng sản.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác đã để lại cho chúng ta một di sản văn học phong phú, đa dạng về ngôn ngữ, về thể loại, về nội dung và phong cách nghệ thuật. những tác phẩm của Bác thấm đượm tư tưởng nhân văn, thể hiện diện mạo và bản sắc văn hóa phong phú của danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh.
Ảnh tư liệu
Truyện ký Nguyễn Ái Quốc những năm 20 của thế kỷ trước và Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) thể hiện một trí tuệ sắc sảo, nhãn quan chính trị sáng suốt, nhưng cái gốc của mọi giá trị ấy là ở tấm lòng xót xa thương cảm của Bác đối với hàng triệu người trên trái đất đang lầm than, khổ nhục dưới ách thực dân. Tư tưởng nhân văn thể hiện đậm nét ở thái độ yêu ghét rõ ràng. Bác yêu thương nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức bao nhiêu thì càng căm phẫn, tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đế quốc bấy nhiêu. Bác lên án chính sách đàn áp dã man kiểu trung cổ, tố cáo chính sách ngu dân của thực dân Pháp, đầu độc nhân dân các nước thuộc địa bằng rượu cồn và thuốc phiện. Chúng không chỉ vơ vét tài nguyên mà còn bóc lột người dân thuộc địa bằng “ thuế máu”. Bác tin tưởng sâu sắc ở tương lai tốt đẹp cho nhân loại khi “nô lệ thức tỉnh”, tin tưởng thế hệ thanh niên Việt Nam sẽ là tương lai của đất nước (6). Những truyện ký tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc như Vi hành, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Những trò lố hay Varen và Phan Bội Châu vv… đã đánh những đòn hiểm vào bọn thực dân và phong kiến đầu sỏ. Ngòi bút của Bác đả kích sâu cay mà vẫn trang nhã lạ thường. Bác không trực tiếp mạt sát, lố bịch hóa đối tượng mà để cho nhân vật và sự kiện tự bộc lộ bản chất, chân tướng. Đây cũng là những biểu hiện tinh thần nhân văn sâu sắc của văn chương Hồ Chí Minh.
Văn chính luận của Hồ Chí Minh thấm đượm chất trữ tình. Những chân lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, những tư tưởng sâu sắc, những chủ trương quan trọng qua ngòi bút của Bác trở nên giản dị, dễ hiểu, ấm áp, nồng hậu, chân thành, làm cho người đọc, người nghe như uống từng lời, từng chữ, cảm thấy một sự tin tưởng mà vững bước đi lên. Văn chính luận của Bác đi thẳng vào trái tim người đọc trước khi chinh phục trí tuệ của họ. Tuyên ngôn Độc lập (1945) xứng đáng là một áng văn chính luận mẫu mực, một áng “thiên cổ hùng văn” của thời đại mới. Đó là kết tinh truyền thống yêu nước, anh hùng, truyền thống văn hóa, nhân văn của dân tộc ta, là kết quả của gần một thế kỷ đấu tranh giải phóng của nhân dân ta. Việc trích dẫn những lời nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) không chỉ là một thủ pháp “Gậy ông đập lưng ông” mà còn thể hiện sự gặp gỡ giữa tư tưởng nhân văn truyền thống của dân tộc ta và lý tưởng nhân văn cao đẹp của thời đại trong cảm hứng sáng tạo của Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn Độc lập được viết với một cảm hứng phấn chấn, giàu cảm xúc thẩm mỹ, thiết tha đề cao giá trị chân - thiện - mỹ của con người và dân tộc. Bản Tuyên ngôn còn thể hiện một tài năng lỗi lạc và tầm cao tư tưởng, trí tuệ Hồ Chí Minh - một tầm cao tư tưởng và văn hóa kết tinh những tinh hoa của thời đại, của nhân loại.
Những lời kêu gọi, thư chúc mừng, thăm hỏi của Bác là tiếng nói của người cha thân thiết, ấm áp, giản dị và đầy thương mến: “Một ngày Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Yêu thương con người, trân trọng con người, đấu tranh cho hạnh phúc và sự tiến bộ của con người là điểm nổi bật nhất, sâu sắc nhất trong tâm hồn Hồ Chí Minh. Chính vì vậy mà cả cuộc đời, Người chiến đấu không mệt mỏi cho dân tộc, cho nhân dân, cho nhân loại cần lao. Cho đến lúc đi xa, người còn “để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân, cho các cháu thanh niên, nhi đồng” (7).
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét và sâu sắc trong thơ Bác. Đọc Nhật ký trong tù (1942 – 1943), chúng ta cảm nhận được tâm hồn nhân ái bao la của tác giả vượt qua mọi ngăn cách của ngục tù để đến với những cuộc đời đau khổ. Một bậc vĩ nhân như Bác mà coi những người tù tội là bạn và gọi là “nạn hữu”. Bác yêu thương, chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ trong tù cũng như những người lao động ở Trung Quốc. Một tiếng khóc của cháu bé nửa tuổi trong ngục Tân Dương những năm 40 của thế kỷ trước còn nhắc mãi với nhân loại về những nỗi đau khổ, ngang trái trên cuộc đời.
Trong thơ Bác, ta thấy tình cảm thiên nhiên đầm ấm, thiết tha. Thực ra, yêu thiên nhiên cũng là biểu hiện tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu cái đẹp. Thiên nhiên trong thơ Bác bao giờ cũng mang cảm hứng về con người. Đó là sự nghiệp, là niềm vui, nỗi buồn của con người, là người bạn, là môi trường che chở cho con người. Thiên nhiên trong thơ Bác ấm áp tình người và mang sinh khí khỏe khắn, linh hoạt của nhân dân lao động:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
(Chiều tối)
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tấm lòng ân nghĩa, thủy chung, đôn hậu, yêu trẻ mến già. Sinh thời, Bác có đức tính giản dị hết mực, xét đến cùng, ấy cũng là biểu hiện của lòng nhân ái. Bác lúc nào cũng nghĩ đến nhân dân lao động, đến những người cùng khổ, do đó, Người không muốn sống khác lối sống hồn nhiên, bình dị, cần kiệm của nhân dân. Đây là ân tình của một vị Chủ tịch nước hay là cảm xúc của một thi nhân:
“Cảm ơn bà biếu gói cam
Nhận thì không đúng, từ làm sao đây?
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai”
(Cảm ơn người tặng cam)
Công lao của Bác như trời biển, một gói cam có đáng kể gì, ấy vậy mà Người cứ băn khoăn, áy náy mãi “Nhận thì không đúng, từ làm sao đây ?”. Thơ Bác có sức giáo dục, cảm hóa, động viên to lớn, ấy là vì Bác luôn lấy tình nhân ái làm gốc rễ, lấy sự hiểu biết và cảm thông sâu xa làm lý lẽ. Viết cho thiếu nhi, Bác thể hiện tình cảm yêu quý vô vàn, tấm lòng trân trọng tuổi thơ đất nước:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”
(Kêu gọi thiếu nhi)
Bác còn tin tưởng, động viên thiếu nhi “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ - Tùy theo sức của mình” để góp phần vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sự thống nhất và chuyển hóa sâu sắc giữa tư tưởng nhân văn và tư tưởng chính trị. Bởi vậy, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xét đến cùng cũng là lòng yêu nước thương dân, là chiến đấu vì nước, vì dân. Trọn cuộc đời với tất cả sức lực, trí tuệ, nhiệt tình, Bác đã dâng hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân, vậy mà khi từ biệt chúng ta, Người “chỉ tiếc là tiếc rằng: Không phục vụ được lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” (8).
Có nhà thơ đã viết:
“Mặt trời lặn, mặt trời mang theo nắng
Bác ra đi để ánh sáng cho đời”
Đó là ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, là tình cảm nhân ái bao dung của Bác. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấy gần gũi Bác hơn, thấy mình như được tắm trong tình thương rộng lớn của Bác. Chúng ta nguyện đoàn kết phấn đấu, xây dựng nước ta giàu mạnh, sánh vai các cường quốc năm châu như mong ước lớn lao của Người.
1.Hồ Chí Minh. Về công tác văn hóa văn nghệ - 1971.
2. Lời phát biểu tại đại hội Tua năm (1924), Theo Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch.
3. Xem: Từ điển triết học. Nxb Sự thật, 1976.
4. Trường Chinh. Tăng cường tính Đảng, đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng tốt hơn nữa.
5. Phạm Văn Đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa, khí phách của dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb Sự thật, 1970.
6. Phần phụ lục “ Gửi thanh niên Việt Nam”. Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb Sự thật, 1976.
7, 8. Hồ Chí Minh. Di chúc - 1969.
NGUYỄN VĂN RÈN
Tạp chí Chư Yang Sin số 297 tháng 5 năm 2017
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0