“Đây đích thực là lục bát công nghiệp.” (Chế Lan Viên)
Nhà thơ Phạm Doanh (tên thật Phạm Đình Doanh, từng lấy bút danh Hoàng Nguyên), sinh năm 1942 tại Hoàng Đông – Thủy Nguyên – Hải Phòng, đã vĩnh viễn khép lại hành trình sáng tạo của mình, để lại cho đời một di sản thơ – giản dị mà sâu xa, bền bỉ mà chan chứa tình người.
Từ những năm tháng sống và lao động tại vùng mỏ Quảng Ninh, ông đã tìm thấy ngôn ngữ của mình trong bụi than, khói lửa và nhịp búa. Chính nơi ấy, ông viết nên “Xứ đầu tiên” – tập thơ được trao Giải thưởng Văn học về đề tài Công nhân của Hội Nhà văn Việt Nam và Tổng Công đoàn Việt Nam (1972–1975). Câu nhận định của Chế Lan Viên: “Đây đích thực là lục bát công nghiệp” – không chỉ là lời khen, mà là một định danh nghệ thuật: Phạm Doanh đã đưa lục bát – thể thơ dân gian, mềm mại – đi vào thế giới của thép, của khói, của con người lao động hiện đại, làm cho ngôn ngữ dân tộc được tiếp nối trong nhịp thở công nghiệp hóa.
Ông là nhà thơ của lao động, của hiện thực xã hội chủ nghĩa, giữa bộn bề, ắp đầy, ngồn ngộn của cuộc sống phải chọn cho được một hình ảnh, một chi tiết tiêu biểu, đắc địa sao cho câu thơ được viết lên bắt nó phải lấp lánh sáng, che hết u ám của đời chỉ còn đọng lại cái phập phồng tươi rói của nhịp đập sự sống mà thôi. Ông nhìn mọi vật với cái nhìn háo hức của trẻ thơ nên câu thơ đọc lên lúc nào cũng thấy mới mẻ. Mỗi câu thơ ông viết đều âm thầm nhưng mang cái rạo rực, cái đắm say của tình yêu cuộc sống, của tấm lòng khát khao đem đến cho đời những điều tốt đẹp hơn.
Năm 1987, từ Quảng Ninh, ông chọn Daklak làm nơi dừng chân của đời mình và cống hiến. Những năm đầu trên cao nguyên, giữa gió mùa khô và đất đỏ, ông vừa viết vừa truyền lửa cho phong trào văn nghệ. Những đêm thơ ban đầu ấy ở phố núi đã vang lên Hoàng Cầm, Quang Dũng mê hoặc mọi người yêu thơ. Những ngày nhà thơ Hữu Loan và nhà thơ Bùi Minh Quốc thắp lửa cho thơ Daklak đều có bàn tay vun vén của ông.
Là một trong những người sáng lập Hội Văn học Nghệ thuật Daklak, giữ chức Phó Chủ tịch Hội các nhiệm kỳ I, II, III, Tổng Biên tập Tạp chí Chư Yang Sin (1990–2015), ông đã góp phần định hình đời sống tinh thần của vùng đất, dìu dắt nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ trẻ trưởng thành. Từ một chuyên mục “văn học trẻ Daklak” trên Chư Yang Sin, sau này ý tưởng ấy đã cùng với các lãnh đạo Hội hoá thành trại viết Hạ Xanh, nơi rất nhiều cây bút trẻ Daklak nối tiếp nhau trưởng thành. Trong mọi vai trò, Phạm Doanh vẫn giữ một phong thái điềm đạm, nhân hậu, kín tiếng, một “người làm nghề” đúng nghĩa – người trung thành tuyệt đối với chữ nghĩa, với lao động thơ và với các bạn bè thơ ở Daklak.
Ông không chọn tiếng vang, mà chọn sự lặng lẽ. Ông không chọn trung tâm, mà chọn ngoại biên, chơi mới những người mới viết, nơi tiếng nói của con người bình dị cần được gìn giữ, để các cây bút ở huyện xa không lẻ loi mà nhanh chóng hình thành một lực lượng, và nhiều người đã trở thành hội viên hội nhà văn VN.
Có thể nói, nhìn từ góc độ hậu hiện đại, thơ Phạm Doanh là một diễn ngôn của ký ức một vùng. Cả một vùng thơ Bazan đất đỏ, vì thế thơ ông không chỉ kể chuyện cuộc đời, mà còn hồi sinh ký ức của mọi người, làm cho văn học trở thành một thực thể đạo đức của một thời, một vùng đất.
Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm:
Với những đóng góp cho văn học và văn nghệ Daklak, ông được trao nhiều giải thưởng và huy chương:
Giờ đây, khi nhà thơ Phạm Doanh đã đi xa, cao nguyên Daklak như lặng im hơn trong gió. Nhưng giữa không gian ấy, người ta vẫn nghe thấy tiếng lục bát công nghiệp của ông, âm vang của con người và đất, của lao động và ký ức, của “Nhớ lắm Daklak ơi”, những tác phẩm mà nếu chọn những câu thơ hay nhất về đất và người Tây Nguyên hẳn không thể thiếu những câu thơ của ông. Để chớp được nét đẹp văn hóa của bất cứ một vùng đất nào, trước hết trong hơi thở, trong dòng máu đang chảy của người nghệ sỹ phải ít ra gội được sương, tắm được gió, bén được mùi thổ nhưỡng ở đó và Phạm Doanh đã hòa mình vào cảnh vật, con người Tây Nguyên. Ông đã sống một đời bình dị mà hiên ngang, viết nên thơ không chỉ tụng ca mà còn là chứng nhân cho sự tồn tại của nhân phẩm.
Phạm Doanh ra đi nhưng thơ ông vẫn ở lại – trong tiếng gió lùa qua nhà dài, trong ánh than mờ Quảng Ninh, trong mỗi trang viết của những người ông từng dìu dắt. Giữa hai miền đất ấy, dường như còn vang vọng một hợp âm thầm lặng: tiếng của vỉa than vùng mỏ hòa cùng tiếng cồng chiêng Tây Nguyên – âm thanh của lao động, của ký ức, của lòng người chưa bao giờ tắt.
Nhà thơ Phạm Doanh đã ra đi, nhưng tên ông, thơ ông, và tinh thần tận hiến của ông sẽ còn ở lại, như một chứng nhân lặng lẽ của thời đại, một người giữ ngôn ngữ cho một vùng đất, và đó là lý do, dù đọc ông trong thời nào, người ta vẫn cảm thấy một thứ ánh sáng chậm rãi: ánh sáng không rực rỡ của chiến thắng, mà ấm áp của ký ức còn được nhớ đến, ánh sáng của một người từng tin rằng ngôn ngữ – có thể cứu rỗi con người bằng chính sự trung thực của nó.
Nhà thơ Lê Vĩnh Tài
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0