Ông bà mình nói, một chữ cũng Thầy, nửa chữ cũng Thầy với truyền thống tôn sư trọng đạo và mong muốn con cháu làm tốt lời dạy đó. Trong cuộc sống, đôi khi chưa học chữ nào, nhưng chỉ cần một sự giúp đỡ nhỏ nhoi của ai đó cũng có thể giúp ta đặt được bước chân lên con đường mình mơ tưởng.
Là sinh viên ở một tỉnh nhỏ, tôi thật sự bối rối khi chọn con đường để đến với công việc mình yêu thích. Hồi đó, niềm đam mê phim ảnh là một ngọn lửa mãnh liệt trong tôi. Nhưng sinh viên Ngữ văn thì tiếp cận với lĩnh vực phim ảnh bằng con đường nào rõ ràng là một thử thách. Mùa hè năm 1991, tôi mạnh dạn bước chân vào ngôi nhà của Đài Truyền hình Phú Yên khi còn nằm ở đường Lê Thánh Tôn, thị xã Tuy Hòa. Mạo muội đặt vấn đề với người lãnh đạo mong muốn được làm truyền hình và sẵn sàng chấp nhận bất cứ yêu cầu nào lãnh đạo đưa ra. Đường đi đã rõ khi cố nhà báo Tạ Tấn Đông, Giám đốc Đài gợi ý: nếu tự bỏ tiền học quay phim cũng được nhưng chưa cần thiết, có thể sau này Đài sẽ cho học. Điều mà Đài cần lúc này là một bản luận văn về một vấn đề nào đó có mối quan hệ giữa văn học và phim ảnh nói chung, truyền hình nói riêng. Thế là "phiếu đặt hàng" đã rõ, vấn đề còn lại là làm thế nào để có được đơn hàng?
Trở lại giảng đường Đà Lạt lòng tôi thêm trĩu nặng lo âu vì khi báo cáo đề tài luận văn tốt nghiệp với Khoa Ngữ văn, mọi ý kiến đều không ủng hộ. Lý do họ đưa ra là sinh viên khoa Văn chỉ nên nghiên cứu về văn chương, còn phim ảnh chỉ dành cho sinh viên trường Điện ảnh. Các thầy đều có cái lý trong bối cảnh giáo dục đại học còn nhiều cứng nhắc, giáo điều. Còn mình chỉ mong đủ điểm ra trường và có được công việc làm mình yêu thích. Lại một thách thức nữa Khoa Ngữ văn đưa ra: nếu có người có chuyên môn về phim ảnh đồng hướng dẫn luận văn, thì Khoa có thể chấp nhận được! Thế nhưng may mắn đã mỉm cười với tôi.

Biên kịch, Đạo diễn Trần Thanh Hưng (thứ 3 từ trái sang) cùng các thành viên Ban giám khảo
Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 42, Qui Nhơn, tháng 3/2025
Tôi đem câu chuyện tâm sự với thầy giáo chủ nhiệm Nguyễn Minh. Ban đầu, ông không mấy ủng hộ, vì thầy đã chuẩn bị đề tài về dịch thuật một bản Kiều bằng chữ Nôm do một người dân Đà Lạt mới phát hiện cho nhóm 4 sinh viên có học lực kha khá về bộ môn do thầy dạy cùng làm, trong đó có tôi. Nhưng rồi thầy cũng thông cảm một điều, luận văn tốt nghiệp đại học về Hán Nôm mà về Phú Yên xin việc thì chắc chờ qua thế kỷ 21 mới có hy vọng! Thế là thầy chuyển sang tìm mọi cách để giúp học trò mình có được việc làm yêu thích ngay sau khi ra trường.
Trước năm 1975, Ban kịch Thụ Nhân thuộc Trường Đại học Văn khoa Đà Lạt là một nhóm nghệ sĩ nổi tiếng với những tên tuổi như Lê Cung Bắc, Phạm Thùy Nhân, Ngụy Ngữ, Sâm Thương, Trần Quang...Tôi cầm thư tay của thầy Nguyễn Minh từ Đà Lạt xuống Sài Gòn tìm nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân với hy vọng cuối cùng. Năm đó, báo Lao Động bình chọn ông là "con gà đẻ trứng vàng". Bởi, đây là thời điểm dòng phim thị trường làm nên ăn ra. Thù lao một tập phim cho biên kịch cũng ngang ngửa với cát sê cho đạo diễn, diễn viên chính. Mỗi tháng, biên kịch Phạm Thùy Nhân cho ra mắt không dưới 3 tập kịch bản phim, đơn đặt hàng tới tấp. Những "Cánh hoa hoang dại", "Ngôi nhà oan khốc", "Vết thù năm tháng"...cùng nhiều kịch bản khác của ông được ra đời trong giai đoạn này. Chính vì thế, mất gần buổi sáng vòng vèo trong các con hẻm Sài Gòn, khi đứng trước nhà ông, người ra mở cửa và nhận thư là vợ ông chứ không phải người mình mong đợi.
Tiếp tục chờ! Sau khi xem thư, ông mới cho phép được mời lên gác. Đó là căn phòng làm việc của ông, chật chội, đầy sách, báo, tạp chí. Tôi còn nhớ như in câu đầu tiên ông nói: cậu thấy đấy, Sài Gòn mùa này nóng khủng khiếp, cúp điện liên miên, nhưng tôi phải hoàn thành 3 kịch bản đúng cam kết với các đơn vị sản xuất phim và một số bài báo đã đặt hàng. Chính vì thế nhiều sinh viên trường Sân khấu Điện ảnh sang nhờ hướng dẫn làm luận văn tôi đều từ chối. Nhưng sau khi đọc thư của anh Minh, thấy cậu lặn lội từ Đà Lạt xuống đây, nhớ lại hình ảnh tôi mấy chục năm trước, nên tôi nhận lời. Nhưng tôi nói trước là tôi không học qua trường lớp điện ảnh ngày nào, nhờ biết ít tiếng Tây, tôi học từ sách là chính (chỉ tay vào tủ sách). Thôi cậu cầm mấy cuốn sách này về đọc, khi nào xong thì lại gặp tôi. Tôi chỉ biết nói lời cảm ơn rồi cuối đầu chào ra về, vì thời gian của ông là vàng ròng!
Chưa kịp mừng rỡ, tôi đã tá hỏa khi 11 cuốn sách ông đưa, chỉ có 3 cuốn tiếng Việt của các nhà lý luận sân khấu điện ảnh phía Bắc, 8 cuốn còn lại là tiếng Anh, tiếng Pháp. Cũng may là người dượng tôi đang trọ nhà ông để làm luận văn thời gian ở Sài Gòn là một thông dịch viên trước 1975. Rào cản về ngôn ngữ đã được tháo dỡ. Sau thời gian nghiền ngẫm, tôi may mắn được biên kịch Phạm Thùy Nhân dành cho mấy buổi để góp ý cấu trúc cuốn luận văn, cho theo vài đoàn phim đang quay kịch bản do ông viết...
Thời gian ngắn ngủi đó cho tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm vô cùng hữu ích, cảm nhận được phần nào công việc sản xuất phim điện ảnh, truyền hình, từ khâu biên kịch đến công tác đạo diễn, quay phim, âm thanh, ánh sáng cùng muôn vàn yếu tố khác để có được một tác phẩm bằng ngôn ngữ hình ảnh.
Rồi ngày bảo vệ luận văn cũng đến. Biên kịch Phạm Thùy Nhân không thể lên dự được dù ông lúc nào cũng muốn trở lại Đà Lạt, nơi ông gắn bó quảng đời sinh viên trước 1975. Ông cũng không nhận mình là người đồng hướng dẫn, mà chỉ là người giúp đỡ. Nhưng những góp ý bằng thư tay của nhà biên kịch gửi cho Hội đồng phản biện luận văn, cho thầy Nguyễn Minh Tiến, người hướng dẫn chính luận văn cho tôi là hết sức chi tiết. Nhận xét chung của ông là luận văn viết rất tốt, gần như một công trình nghiên cứu nghiêm túc (nếu được bổ sung thêm nhiều tư liệu nữa thì sẽ tuyệt, nhưng như vậy là vừa với một luận văn rồi, có những chương viết hay, lập luận mới mẻ và vững vàng-lời nhận xét của nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân).
Đặc biệt, ông góp ý cho tôi khá nhiều tiểu tiết mà trong suốt cuộc đời làm nghề của mình, tôi không sao quên được, như: cuối luận văn phải để tài liệu tham khảo, những tên phim thì hoặc đánh chữ in, hoặc gạch dưới cho phân biệt, phim nào không biết tác giả hoặc đạo diễn thì đừng để vào, vì sẽ bị " mất điểm"!, những tên nước ngoài thành phiên âm La-tinh không viết theo phiên âm Việt Nam...Luận văn tôi được các thầy hướng dẫn cho điểm 10. Qua buổi bảo vệ trước Hội đồng với nhiều tranh luận chủ yếu là mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, giữa công tác biên kịch và đạo diễn...cuối cùng, luận văn được Hội đồng cho điểm 9,5. Đối với tôi, đó là kết quả ngoài mong chờ, vì tôi chỉ mong vượt qua điểm sàn để ra trường là được, vì ngay sau đó tôi sẽ có ngay việc làm mình mong ước.
Dù quan niệm làm nghề rất rõ ràng: viết kịch bản phim thương mại thì để sống và nuôi con (tất nhiên là không được ...dỏm - lời của nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân), còn viết kịch bản nghệ thuật là để không xấu hổ với cái tiếng "có ăn có học đường hoàng". Nhưng ông vẫn mong muốn được nghỉ ngơi ở Đà Lạt một tháng để viết một kịch bản không phải theo đơn đặt hàng. Thời điểm đó, ngoài những kịch bản "thương mại", ông còn có 2 kịch bản nghệ thuật sẽ quay: Dấu ấn của quỷ (Việt Linh đạo diễn, sau đó đoạt nhiều giải thưởng lớn trong và ngoài nước), Đoạn cuối thiên đường (Hồng Sến đạo diễn).
Sau này, khi đã vào nghề, biên kịch Phạm Thùy Nhân vẫn dõi theo công việc của tôi. Ông gợi ý cho tôi làm những bộ phim liên quan đến dòng sông Ba kỳ vỹ, đến núi Đá Bia như một hòn vọng phu trong mắt ông, ông xem và góp ý cho tôi những chương trình phát sóng trên truyền hình, ông vui mừng khi thầy trò gặp lại nhau trong các cuộc vui ở Đà Lạt, trong hoạt động của Hội Điện ảnh...
Trong tâm tưởng, tôi luôn gọi ông bằng THẦY, người thầy định hướng, giúp đỡ cho nghề nghiệp của mình, dù chưa đứng trên bục giảng cho tôi ngày nào.
Box:
Nhà biên kịch Phàm Thùy Nhân sinh năm 1951 tại Phan Rí cửa, Bình Thuận (nay thuộc Lâm Đồng). Hiện đang sinh sống và hoạt động điện ảnh tại TP.HCM. Biên kịch Phạm Thùy Nhân đã có trên 60 kịch bản phim truyện nhựa, video, truyền hình được đưa vào sản xuất. Một số phim tiêu biểu là: Gánh xiếc rong, Xương rồng đen, Dấu ấn của quỷ, Vết thù năm tháng, Ngôi nhà oan khốc, Bản tình ca cuối cùng, Đoạn cuối thiên đường, Nhịp đập trái tim, Mê Thảo - thời vang bóng, Cơn lốc cuộc đời, Cõi tình, Dòng đời, Sương gió biên thùy, Cây huê xà, Một thời ngang dọc... Ông được trao giải thưởng Cánh Diều Vàng cho biên kịch xuất sắc nhất đối với thể loại phim truyền hình.
(Trần Thanh Hưng, cựu SV ĐH Đà Lạt, khóa 12)
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0