Hình ảnh Phụ nữ Tây Nguyên qua sáng tác của Nhạc sĩ Nhật Lai
Ngày đăng: 15/10/2025 16:24
- Lượt xem: 60
- Thích
Ngày đăng: 15/10/2025 16:24
Tôi may mắn là người đồng hương thôn Trung Lương 1, xã An Nghiệp, huyện Tuy An, và là bà con bên Ngoại với nhạc sĩ Nhật Lai, nhà thơ Nguyễn Mỹ. Năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 20 năm giải phóng miền Nam, lãnh đạo VTV Phú Yên có giao chúng tôi cùng các đồng nghiệp Đài PT&TH Hà Tây về lại Trung Lương để làm phim về nhạc sĩ Nhật Lai. Nhờ vậy, chúng tôi may mắn được gia đình cung cấp một số di cảo là bản chép tay, bản phô tô mà bà con, bạn bè, đồng nghiệp viết về hai ông.
Tham luận này xin chia sẻ một số câu chuyện nhỏ trong di cảo lớn đó, nhất là những sáng tác của ông có liên quan đến hình ảnh, hình tượng người phụ nữ Tây Nguyên.
Trước hết là bút danh của ông. Công chúng biết nhiều đến nhà thơ Nguyễn Mỹ bởi thi phẩm Cuộc chia ly màu đỏ, nhưng nhạc sĩ Nhật Lai nổi tiếng với những sáng tác về âm nhạc có chất liệu văn nghệ dân gian Tây Nguyên và ca khúc Hà Tây quê lụa thì nhiều người nhầm tưởng ông là người Tây Nguyên hoặc người Hà Tây chứ không phải người Phú Yên! Nhật Lai có tên khai sinh trùng tên một nhà văn lừng lẫy người Hà Nội, đó là Nguyễn Tuân, nhưng nhỏ hơn tới 21 tuổi. Thực ra cái tên Nhật Lai của ông cũng ra đời ngay từ lúc học ở trường. Ngày ấy, ông thuộc lớp trẻ nhất nên được các anh chị trong lớp chiều chuộng. Thấy ông có dáng người lùn, mập, các chị đặt vui cho cái tên “Nhật lùn” rồi sau đổi thành “Nhật lai”. Ông cảm thấy thích thú với cái tên “Nhật Lai” nên giữ làm bút danh trong suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình.
Thứ hai, về quan điểm sáng tạo nghệ thuật. Nhạc sĩ Nhật Lai cho rằng, phải yêu dân ca như yêu vợ của anh ta! Sự so sánh trong quan niệm sáng tác của Nhật Lai phần nào cho thấy tình yêu mà ông đã dành cho dân ca Tây Nguyên. Như một sự trùng hợp đầy duyên số: Nhật Lai gắn bó với các sắc tộc ít người trong sáng tạo nghệ thuật, và hai đời vợ của nhạc sĩ cũng là những phụ nữ dân tộc thiểu số tài hoa. Người vợ đầu là bà Châu Ngọc Lệ, diễn viên múa dân tộc Khmer, không may mất sớm. Người vợ thứ hai là bà Hồ Thị Kha Y, một ca sĩ người Vân Kiều...
Thứ ba, vắn tắt đôi dòng về gia đình, cuộc đời và tài năng thiên phú của ông. Ông Nguyễn Tài, nguyên Trưởng Công an huyện Tuy An, một người bà con, một người bạn từ thuở ấu thơ với nhạc sĩ Nhật Lai, kể lại: “ Họ hàng bên nội Nhật Lai giàu có, ông ngoại Nhật Lai từng là thầy dạy nhạc trong triều đình Huế, nhiều ông cậu bà dì là những nghệ nhân đờn ca nhạc cổ, riêng trong nhà hợp lại cũng đủ một dàn nhạc lễ. Họ kết hợp với nhau thành cái nôi âm nhạc, bao bọc cả tuổi thơ của Nguyễn Tuân, một tuổi thơ ngày ngày được nghe, được tập đàn hát những bài dân ca, tuồng cổ...”. Cũng theo lời ông Nguyễn Tài, Nguyễn Tuân khi nhỏ rất hiếu động, nhưng rất mơ mộng và giàu trí tưởng tượng, sớm bộc lộ khả năng tổ chức trò chơi văn nghệ, thích tập hợp lũ năm lũ bảy để hát ca, chơi đàn, diễn kịch. Nguyễn Tuân tự khoét những cây sáo mò o, sớm chiều mê mẩn thổi vào không gian mênh mông nắng và gió của quê nhà những bài hát tân nhạc lãng mạn nổi tiếng thời bấy giờ. Nỗi đam mê ca nhạc đến khác thường khiến cho mẹ của Nguyễn Tuân cho rằng ông bị bùa mê quỷ ám hay sao nên cứ đàn hát suốt ngày đêm như điên dại như vậy...
Năm 18 tuổi, nhạc sĩ Nhật Lai học hết bậc trung học tại Quảng Ngãi giữa hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp, ông lên công tác ở Đắk Lắk, một tỉnh giáp giới Phú Yên và bây giờ hai tỉnh lại là một! Từ đây, ông dần dần lặn lội khắp các buôn làng, thâm nhập sâu vào đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số để sưu tầm, nghiên cứu dân ca và sáng tác nhạc về Tây Nguyên. Trong đó, phần lớn là ông khai thác chất liệu từ dân ca, dân vũ. Mà nói đến hai loại hình này, thì rõ ràng hình ảnh, hình tượng người mẹ, người chị, người thiếu nữ luôn hiện diện đầy ắp, ấm áp và tràn đầy sức sống. Ông hòa nhập rất nhanh vào Tây Nguyên, từ hình thức bề ngoài như đóng khố, mang gùi, đi chân trần lên nương rẫy trồng tỉa cho đến việc vót chông, cài bẫy, săn bắn thú rừng và đặc biệt hơn, tâm hồn ông dần “Tây Nguyên hóa” thực sự bằng sự học, sự am hiểu nhiều thứ tiếng, phong tục tập quán của đồng bào Êđê, Ba Na, Gia Rai, Hơ Rê… để phục vụ cho công việc nghiên cứu, sáng tác âm nhạc của mình.
Khi còn ở Phú Yên, nhạc sĩ Nhật Lai đã giả đóng khố, dùng lọ nồi vệt lên mặt để giả đồng bào Tây Nguyên diễn kịch. Lên Tây Nguyên, ông đóng khố thật, hút thuốc bằng tẩu, mang gùi, đi chân đất, săn bắn thiện xạ, thông thạo nhiều thứ tiếng Ê đê, Gia rai, Bahnar, Hơ rê…
Không chỉ về ngoại hình, nhạc sĩ Nhật Lai còn mang hồn cốt của một nghệ sĩ Tây Nguyên, ông từng bước, từng bước khai thác kho báu âm nhạc dân gian Tây Nguyên mà bấy giờ, còn ít người quan tâm. Ông thuộc hàng trăm bài dân ca, viết hàng trăm ca khúc bằng tiếng dân tộc. Ông vừa đàn, vừa hát, vừa trao truyền âm nhạc và cũng là để phục vụ kháng chiến từ buôn gần đến buôn xa.
Ông Nguyễn Tài kể lại: có lần, nhạc sĩ Nhật Lai đưa cả chục người Ê đê về quê nhà An Nghiệp biểu diễn văn nghệ, làm cho mẹ ông hoảng hồn không biết chuyện gì xả ra, vì con trai mình mặt mũi cũng bôi lọ nồi đen thui, cũng đóng khố, hông đeo cung tên, hát múa cùng nhóm đồng bào Ê đê...
Hơn 5 năm làm cách mạng, sáng tac ở Tây Nguyên (từ 1949-1954) nhạc sĩ Nhật Lai đã sáng tác nhiều ca khúc rất đặc trưng chất núi rừng Tây Nguyên như: Tăm thơi, Chim Kơtia, Xuống chòi mau lên em!, Thương anh cán bộ, Đợi chờ, Tiếng cồng đêm ngừng chiến…
Một trong những tài liệu hiếm hoi của gia đình Nhật Lai mà chúng tôi tiếp cận được đó là hơn 3 trang viết tay với tiêu đề “Để nhớ lại những ngày sống chung với cố nhạc sĩ Nhật Lai” của ông Nguyễn Tài. Ông Tài nhấn mạnh về cái nôi âm nhạc của gia đình Nhật Lai, ông viết:
“Ngày nay, mỗi lần nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi những bản nhạc “ Hà Tây quê lụa”, hay “ Tiếng hát mở đường”, tôi không khỏi bùi ngùi thương nhớ đến những ngày sống chung với cố nhạc sĩ Nhật Lai. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung nông, bên ngoại anh từ ông ngoại, cậu, dì đều là những tay đờn, trống cổ hay, giỏi và hát tuồng. Nhất là mẹ anh hát cả tuồng cổ và những bài tân nhạc do anh sáng tác như “Ai yêu Đắc Lăk”, “Đi đánh đồn Tây”… tôi rất ưa thích. Do ảnh hưởng nhạc cổ phía ngoại và năng khiếu có sẵn nên năm lên sáu anh đã biết đánh trống nhỏ (chiến) và biết thổi kèn đám tang, chơi đàn cò và vỗ bồng. Lúc còn nhỏ, anh rất thích câu cá và bắn chim bằng ná thun rất giỏi. Một hôm anh tìm chim để bắn gặp bọn tôi chăn bò ở Hòn Đèo, Lỗ Hương anh đạo diễn tập tuồng và diễn ngay tại chỗ, nhất là tuồng San Hậu, mặt các diễn viên đều vẽ bằng lọ đá táo. Âm nhạc dân gian, sân khấu cổ đã in sâu vào tâm trí anh lúc còn ở độ tuổi thiếu niên.
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhật Lai gia nhập Xã đoàn Thanh niên An Ngiệp. Năm 1946, ông cùng người anh họ Nguyễn Viết Tựu đi học lớp trinh sát đầu tiên của tỉnh Phú Yên. Năm 1948, ông theo học trường cán bộ Trung học bình dân ở Quảng Ngãi và hai năm sau làm cán bộ thuộc Ty Thông tin tuyên truyền tỉnh Đắc Lăk.
Ông Tài viết tiếp “Một hôm anh về phép thăm nhà dẫn theo vài em thiếu niên Ê đê cùng đi. Mỗi lần anh về quê thì thanh thiếu nhi trong vùng đều được tập nhiều bài hát hay kịch mới. Anh tập hóa trang dân tộc Gia Rai, Ba Nar, H’Rê và múa hát các bài ca Tây nguyên. Mỗi khi đại hội tổng kết các chiến dịch, anh thường tập chúng tôi những tiết mục như Buôn chiều, Ai yêu Đắc Lăk, hoạt cảnh Đi đánh đồn Tây, nhạc kịch Ama Trang Lơng, những tiết mục của tỉnh Đắc Lăk được đại hội hoan nghênh nhiệt liệt. Về hậu phương để nghỉ nhưng riêng anh ít ngủ, có những lúc tôi trực giấc dậy đã về khuya vẫn thấy anh còn ngồi ở bàn huýt sáo và viết nhạc để sáng tác.
Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, ông tập kết ra Bắc, tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu, học tập về âm nhạc, nhất là âm nhạc Tây nguyên.
Khi nước nhà thống nhất, ông về thăm quê cũ. Khác với những người về quê, ông không đi theo con đường hương lộ mà chỉ đi đi theo con đường tắt tìm đến bến ông Tấn nơi ông câu cá khi còn nhỏ hay cầu “Lưa” nơi đầu xóm trẻ con thường qui tụ để ông tập hát múa vào những đêm sáng trăng.
Sau ngày đất nước hòa bình năm 1975, nhạc sĩ Nhật Lai vào sống và sáng tác tại TPHCM. Mùa xuân năm 1987, ông cùng một đoàn nghệ sĩ Việt Nam đi tham dự Liên hoan Giao hưởng quốc tế tại thành phố Riga của Latvia (Liên Xô trước đây). Tại liên hoan này, tổ khúc giao hưởng Đất lửa của ông được biểu diễn thành công vang dội. Có lẽ do không hợp với thời tiết lạnh giá trên đất bạn, lại kiệt sức sau chuyến đi dài và dồn hết tâm huyết cho vở diễn, ông đã đột ngột từ giã cõi đời khi vừa trở về Tổ quốc vào ngày 5-1-1987. Nhạc sĩ Nhật Lai ra đi khi bao dự định âm nhạc còn dang dở...
Thứ tư, về con đường âm nhạc gắn với văn nghệ dân gian Tây Nguyên của ông. Sự nghiệp âm nhạc của Nhật Lai mở đầu bằng ca khúc lãng mạn Chiều trên cầu Bồng Sơn, tiếp đến là ca khúc bi tráng Căm thù thằng Tây cướp lúa đen, đã được lan truyền khắp vùng tự do Liên khu 5 thời chống Pháp. Ca khúc Căm thù thằng Tây cướp lúa đen là nỗi đau đớn, căm hận khi nhạc sĩ trẻ Nhật Lai trở về quê nhà, chứng kiến giặc Pháp càn quét cướp bóc, dùng máy bay thả bom phá đập thủy nông Đồng Cam, làm khô kiệt cánh đồng Tuy Hòa rộng lớn nhất miền Trung, gây nên thảm cảnh đói khát, chết chóc tang thương…
Cả khi tập kết ra Bắc, nguồn cảm hứng chủ đạo của Nhật Lai vẫn là Tây Nguyên, mà đỉnh cao là vở nhạc kịch Bên bờ Krông Pa sáng tác năm 1968. Nhạc sĩ Nhật Lai trở thành tác giả nhạc kịch thứ hai sau nhạc sĩ Đỗ Nhuận với vở Cô Sao, góp phần mở đầu cho loại hình nghệ thuật opera Việt Nam hiện đại.
Không những thế, theo nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, một người cũng từng gắn bó và có những ca khúc hay về Tây Nguyên, thì nhạc sĩ Nhật Lai là người góp công đầu trong việc tìm kiếm, sưu tầm, khai thác, nghiên cứu, phát huy những giá trị đặc sắc của âm nhạc cổ truyền các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Ông cũng là một trong những người trực tiếp xây dựng, đào tạo đội ngũ nghệ sĩ cho Đoàn văn công Tây Nguyên phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ ngay trên vùng đất gian khổ, ác liệt này.
Tự học trong trong thực tiễn là chủ yếu, chưa từng qua khóa đào tạo chính quy nào ngoài những lớp sáng tác ngắn hạn của chuyên gia Liên Xô và Triều Tiên. Nhưng hoàn cảnh xuất phát này không hề ảnh hưởng đến Nhật Lai trong thể hiện một cách độc đáo bản lĩnh nghệ thuật của mình, nhất là trong các tác phẩm không lời. Bởi lẽ ông đã được nuôi dưỡng bởi suối nguồn của âm nhạc dân gian. Ông viết: “Ta đã học qua một trường đại học nghệ thuật lớn nhất trong thực tế, cho nên ta nói không hề biết sợ hãi”. Bản lĩnh ấy đã giúp Nhật Lai được xếp vào hàng các nhà soạn nhạc tên tuổi của khí nhạc Việt Nam, qua các tác phẩm giao hưởng thính phòng như: hòa tấu Vũ khúc Tây Nguyên, rhapsodie Tiếng cồng mùa xuân, ballade Tiếng trống đồng (1974), Giao hưởng số 1 Đất lửa (1982)…
Năm 2002, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhìn lại sự nghiệp âm nhạc của nhạc sĩ Nhật Lai, có thể khẳng định ông là một trong những hiện tượng độc đáo của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại.
Sau này, cái chất Tây Nguyên ấy còn tiếp tục hiện diện trong nhiều tác phẩm thanh nhạc, khí nhạc của nhạc sĩ Nhật Lai. Những năm tháng sống ở miền Bắc, Nhật Lai tiếp tục là một nhạc sĩ của Tây Nguyên với nhiều ca khúc như: Suối đàn T’rưng, Chim lạc đàn, Chim Pông Kơle, Gửi Việt Bắc, Về buôn xưa, Xê băng hiêng hành khúc ca, Mùa xuân trên quê hương, Giữ lấy màu xanh, Tiếng hát Mơ nông Tibri, Câu chuyện bên dòng suối, Mặt trời Ê đê, Tôi gặp mẹ tôi…
Là người sớm tiếp cận, sưu tầm, biên soạn dân ca Tây Nguyên, phát triển di sản quí báu đó trong âm nhạc, nhạc sĩ Nhật Lai tiếp tục đưa cái chất Tây Nguyên vào những thể loại thanh nhạc qui mô hơn ca khúc, như ca kịch, ca cảnh ông viết trong những năm 1960, 1970: Ama Trang Lơng, Thử lửa, Hơ bia, Hơ On, Nữ thần mặt trời… Đó là những tiền đề để nhạc sĩ viết Bên bờ Krông pa năm 1968, được xem là đỉnh cao của ông trong lĩnh vực opéra.
Từ năm 1957, nhạc sĩ đã chọn cho mình con đường khổ luyện và cái đích sẽ đến là: “Tự luyện, tự học, tự nghiên cứu tìm tòi vốn cũ dân gian và kinh nghiệm quốc tế để tiến lên sáng tác nhạc kịch (opéra) là đỉnh cao nhất trong cuộc đời nghệ thuật của ta!”.
Nói đến gia tài âm nhạc mang âm hưởng Tây Nguyên của Nhật Lai không thể không nhắc đến nhạc phim Rừng Xà nu, Tiếng gọi phía trước, và đặc biệt là nhạc múa. Ông đã viết nhạc nền cho một số lượng khổng lồ những tiết mục múa như: Rông chiêng, Đi săn, Múa chăm, Múa trống Tây Nguyên, Múa chiếc coong, Cô gái Ê đê, Đâm trâu, Giã gạo…, và các kịch múa: Hoa sen, Thạch Sanh, Nỏ thần… Có nhà nghiên cứu âm nhạc đã nhận xét: hiếm thấy một nhạc sĩ nào lại say mê sống chết với ngành múa như Nhật Lai.
Có được những thành tựu trên là nhờ ông tập hợp và đúc kết kinh nghiệm múa dân gian, từ nhạc nền đến động tác biểu diễn của múa. Ông còn là người có công lớn trong việc trao truyền nhiều điệu dân vũ của các sắc tộc Tây Nguyên cho thế hệ nối tiếp. Nhật Lai vừa viết nhạc, vừa dàn dựng múa, nhiều tiết mục của ông được hoan nghênh không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Trong những năm phụ trách các đoàn văn công: Đoàn Văn công Tây Nguyên (từ năm 1954), Đoàn ca múa miền Nam (từ năm 1961), Nhật Lai không chỉ giữ vai trò biên đạo, mà còn dành nhiều tâm huyết, sức lực vào việc đào tạo diễn viên ca múa và đạo diễn vũ kịch. Ông vô cùng nhạy cảm trong phát hiện những tài năng trẻ, nhiều học trò của Nhật Lai sau này đã trở thành nghệ sĩ múa nổi tiếng, nhiều nhạc sĩ biểu diễn và sáng tác là con em các sắc tộc Tây Nguyên đã trưởng thành nhờ sự dẫn dắt của Nhật Lai.
Nhạc sĩ Hoàng Vân kể lại: trong một trại sáng tác do Hội Nhạc sĩ Liên Xô (trước đây) tổ chức, Nhật Lai cùng với nhạc sĩ Hoàng Vân được mời giới thiệu về âm nhạc Tây Nguyên và minh họa cho Hoàng Vân với vai trò như một diễn giả. Nhạc sĩ Nhật Lai đã độc diễn xuất thần trong nhiều vai diễn như người đi săn, người phát rẫy, trỉa bắp… Nhật Lai nhập vai và hát dân ca hay đến mức cử tọa cứ tưởng ông đích thực là nghệ sĩ dân gian. Có được thành công ấy là nhờ Nhật Lai đã có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực biểu diễn nhờ kết hợp cả ba tài năng: hát múa, diễn xuất và dàn dựng.
Còn nhạc sĩ K'Pá Y Lăng, một trong những chuyên gia về âm nhạc Tây Nguyên, người học trò, người em thân thiết, người đồng hương Phú Yên của nhạc sĩ Nhật Lai thì tự hào: "Nhạc sĩ Nhật Lai đã để lại những tác phẩm nghệ thuật vô cùng giá trị đối với Tây Nguyên nói riêng, âm nhạc Việt Nam nói chung; ông đã đưa cái hừng hực sôi động, cái trữ tình, mượt mà của âm nhạc Tây Nguyên lên sân khấu ca múa. Nhạc sĩ Nhật Lai có những đóng góp hiếm thấy trong nền âm nhạc Việt Nam...".
|
Nhạc sĩ Nhật Lai và hai người vợ của mình (ảnh gia đình cung cấp)
Cố nghệ sĩ ưu tú, nhạc sĩ Ngọc Quang, nguyên Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Phú Yên đã từng viết trong biên khảo âm nhạc của mình: “Nhiều người mới biết Nhật Lai với lĩnh vực sáng tác ca khúc, chưa có điều kiện tiếp cận toàn diện về sự nghiệp Nhật Lai, nhất là trong lĩnh vực khí nhạc - giao hưởng và nghiên cứu, khai thác giá trị âm nhạc Tây Nguyên. Ông là một trong những cây đại thụ ở Việt Nam. Nhạc sĩ Nhật Lai là một trong những người Việt Nam có công đầu trong việc khai thác, phát huy những giá trị đặc sắc của âm nhạc các dân tộc Tây Nguyên. Nhật Lai là một trong những người đầu tiên viết và đầu tư bài bản trên lĩnh vực giao hưởng ở Việt Nam. Nhiều tác phẩm khí nhạc của Nhật Lai đã được biểu diễn, được đánh giá cao trong và ngoài nước. Ông còn có những đóng góp lớn trong việc xây dựng và đào tạo lực lượng cho Đoàn văn công Tây Nguyên trong những năm chống Mỹ, cứu nước. Có lẽ thành tựu chính của Nhật Lai là trên lĩnh vực khí nhạc nên ít người biết đến ông hơn một số nhạc sĩ khác…"
Đất và người Tây Nguyên mãi mãi nhớ thương Nhật Lai, một “già làng” của âm nhạc Tây Nguyên. Đất và người Hà Tây mãi mãi tự hào về món quà âm nhạc mà Nhật Lai đã gửi lại cho mảnh đất cửa ngõ Thủ đô. Người yêu âm nhạc Việt Nam và bạn bè ông nhiều quốc gia trên thế giới cũng mãi mãi nhớ về ông, một trong những hiện tượng độc đáo của âm nhạc Việt Nam.
(Trần Thanh Hưng, Chuyên viên cao cấp, Viện Nghiên cứu Phát triển Bảo tồn Văn hóa Nghệ thuật Đông Nam Á)
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0