THƠ PHẠM DOANH - NHỮNG “NỐT TRẦM XAO XUYẾN”* (Đọc tập thơ Ấy là tôi của Phạm Doanh)
Ngày đăng: 22/10/2025 10:07
- Lượt xem: 45
- Thích
Ngày đăng: 22/10/2025 10:07
Không có giọng sử thi hào sảng, không chính luận ồn ào, không nóng bỏng, quyết liệt hay trữ tình mượt mà, cũng không có những suy tưởng quá xa xôi được diễn đạt một cách phóng khoáng theo lối thơ hiện đại của những cây bút trẻ ngày nay, thơ Phạm Doanh là những cảm xúc bất chợt mà lắng đọng, những tâm tình nhỏ nhẹ trước những hiện tượng đời sống mà nhà thơ bắt gặp trong cõi nhân sinh. Đó là những nốt trầm xao xuyến của một tâm hồn nhạy cảm và đa cảm, thiết tha yêu thương, gắn bó với cuộc đời nhưng cũng nhiều mặc cảm và niềm trắc ẩn. Nét phong cách đó thể hiện khá rõ trong tập thơ Ấy là tôi ( Hội Văn học Nghệ thuật Đăk Lắk -1997). Tập thơ có hai phần: Phần I – Khúc tri ân gồm 19 bài, phần II - Ấy là tôi gồm 20 bài, tuy vẫn là sự thể hiện một cái “tôi” trữ tình ấy nhưng nội dung cảm hứng có những khác biệt nhất định giữa hai phần thơ.
Phần I - Khúc tri ân, tập trung thể hiện tình cảm ân nghĩa của nhà thơ với cuộc đời nhưng anh không nói về đất nước, về cách mạng, về cuộc đời một cách chung chung, trừu tượng mà thể hiện qua hình ảnh những con người, những tình huống, những cảm xúc cụ thể. Đó có thể là một người anh hùng vô danh,“ Một người dại dột” dám lao mình xuống lòng sông sâu tìm vớt những bao gạo từ con tàu bị bom Mỹ đánh chìm. Anh lặn mãi đến đuối sức và không trở lên được nữa, “ Nụ cười và hơi thở / Cũng chìm dưới đáy sông”:
“ Anh làm gì dưới đó
Gạo ơi, có biết không?
Nhưng gạo đâu nói được
Chỉ hoá cơm… khê nồng!”
( Một người dại dột)
Nhà thơ không nói lời ngợi ca muôn thuở trước tấm gương hy sinh quên mình vì sự nghiệp chung mà thể hiện qua mẩu tự sự nhỏ với một giọng trầm buồn để rồi kết lại cái “ khê nồng” - đau đớn, nghẹn đắng trong lòng người. Vào một vườn hoa, cây cảnh trong ngày xuân, nhà thơ không miêu tả và ngợi ca vườn cây đẹp, độc đáo mà “ thèm được khóc trước mùa xuân”. Nghịch lý ấy xuất hiện khi nhà thơ ngẫm nghĩ về cuộc đời lúc cuối chiều của người chủ vườn ấy: Một chiến sĩ cách mạng cả cuộc đời và tuổi trẻ đã hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc: “ Bởi đời ông những mùa xuân đẹp nhất đã bị dập vùi trong tù ngục đạn bom
Cặp môi ông chưa kịp nở nụ hôn
đã mím chặt để xông pha chiến trận
đã bật máu trước đòn thù tra tấn
đã run lên trong cơn sốt rừng già
Khi bạn bè say đắm hát tình ca
thì trái tim ông khúc quân hành vỗ nhịp”
( Cảm xúc một mùa xuân)
Nhìn người chủ vườn chắm chút vườn hoa, giới thiệu cho khách thơ “ những giò phong lan mới”, nhà thơ không thấy vui thú mà đầy niềm trắc ẩn, bởi vì với người lính già chăm vườn, mùa xuân này “ có thể là mùa xuân sau chót”. Mùa xuân sẽ trở lại, vườn cây vẫn xanh tốt và đẹp đẽ nhưng đời người thật ngắn ngủi, vô thường:
“ Nhìn ánh mắt khát khao mà tim tôi đau nhói
Biết đâu mùa xuân tới… Biết đâu?”
( Cảm xúc một mùa xuân)
Phạm Doanh thường phát hiện vấn đề và tìm cảm xúc ở bề sâu của những sự vật và hiện tượng đời sống. Nhặt một cây sáo đồng han rỉ của người lính thất lạc từ hồi chiến tranh, anh hình dung và “ nghe” được những giai điệu của tiếng sáo hay tiếng lòng của người lính năm xưa, những cung bậc cảm xúc của một thời khói lửa, đau thương và không thiếu phần lãng mạn:
“ Cung trầm có mẹ già đồng chiêm
còng lưng mót lúa
cung vút cao là bãi cỏ cánh diều lên
giai điệu ngọt ngào, giai điệu dịu êm
là ánh mắt thơ ngây xốn xang chiều đưa tiễn”
( Tiếng sáo đồng)
Cũng là chuyện thời sự, chính trị: Đi tìm mộ liệt sĩ, tìm người thân sau chiến tranh, khá quen thuộc trong đời sống đất nước mấy chục năm nay nhưng Phạm Doanh lại phát hiện tứ thơ mới lạ qua những tình tiết xúc động:
“ Có người mẹ từ miền quê xa lắm
Lặn lội vào Buôn Trấp kiếm mộ con
Người lính trẻ đã chết trong chiến trận
Đồng đội chôn anh dưới gốc Bông gòn”
( Krông Ana ơi, Đừng quên)
Người mẹ đã tìm mãi, tìm mãi đến “ mười năm” mà chẳng thấy mộ con đâu, chỉ thấy núi rừng, đồng hoang và cuộc sống đang đổi thay từng ngày, những “ vườn cà phê mọc lên ngút ngát”, “ những vườn cây bốn mùa trĩu quả” và “ những ngôi nhà mái ngói đỏ au”. Thế rồi, người mẹ đã ở lại Buôn Trấp, đã gắn bó phần cuối đời với mảnh đất mà con trai mình đã nằm lại trong chiến tranh, “ Nắm xương tàn mẹ cũng gửi lại đây”. Chiến tranh tàn khốc không chỉ gây chết chóc đau thương cho người lính ở chiến trường mà còn gây nên nỗi đau đớn suốt cuộc đời cho những người ở hậu phương, vì thế mà trên đất nước này, mỗi mảnh đất thiêng liêng đều thấm máu xương của nhiều thế hệ người Việt Nam:
“ Krông Ana ơi, dù cuộc đời biến đổi
Đừng quên máu xương ủ dưới đất này!”
( Krông Ana ơi, Đừng quên!)
Chiến tranh đã đi qua mấy chục năm, cuộc sống đã có nhiều đổi thay tích cực nhưng vết thương trên đất nước này vẫn chưa lành hẳn mà còn bao đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần, nhất là đối với những người thương binh đã hiến dâng một phần máu xương cho Tổ quốc:
“ Chín mảnh đạn gắp ra rồi
Vẫn còn một mảnh trong người anh đây!
Nắng mưa ơi, bảy ngàn ngày
Nó nằm nơi bả vai này lặng câm…”
( Vẫn còn mảnh đạn…)
Người lính muốn “ nguôi quên” những đau đớn xót xa để “ Hoà cùng trời đất bài ca thanh bình” nhưng cái mảnh kim loại ma quái của chiến tranh cứ cứa vào da thịt anh nỗi đau nhức nhối:
“ Thế nhưng trong thịt xương mình
Mảnh kim loại vẫn khối hình vẹn nguyên
Mảnh kim loại chẳng nguôi quên
Những ngày trở tiết, những đêm chuyển mùa”
( Vẫn còn mảnh đạn…)
Cũng là chuyện ân tình cách mạng, chuyện tri ân đối với các liệt sĩ và thương binh nhưng tác giả không hô hào chung chung, không dùng những lời hoa mỹ, những ước lệ quen thuộc mà dùng một hình ảnh cụ thể có sức ám ảnh: Cái mảnh đạn mấy chục năm vẫn còn găm buốt nhói trong bả vai người thương binh ấy để khắc sâu nỗi đau mà chiến tranh đã để lại, để nhắc nhở mọi người đừng bao giờ quên những gian khổ, hy sinh của người lính:
“ Ai hay cuộc sống yên lành
Có mảnh đạn bay theo anh suốt đời”
( Vẫn còn mảnh đạn…)
Phạm Doanh thường phát hiện những nghịch cảnh với những sự việc bình thường mà giàu ý nghĩa trong cuộc sống. Nghe kể chuyện ngày nay, trong tiệc vui thừa thãi, người ta uống hết thùng bia này đến thùng khác, cũng chỉ là “ thường như cơm bữa”, người lính già lại nhớ đến kỷ niệm đau buồn với đồng đội thời chiến tranh. Thời đó, chuyện khó khăn, thiếu thốn, đói khát “ cũng thường như cơm bữa”, người bạn chiến đấu bị thương rất nặng, lúc cận kề cái chết, anh muốn uống nước:
“ Phút cuối cùng của tuổi thanh xuân
Nó kêu khát và nó đòi uống nước
Chỉ có nước mắt ứa ra từng giọt
Giữa chiến trường mùa khô cao nguyên”
( Chuyện thường)
Cũng là “ chuyện thường” nhưng là sự khác biệt, tương phản trong đời sống ở hai thời kỳ lịch sử, sự tương phản đó nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên những gian khổ hy sinh của những thế hệ cầm súng chiến đấu giải phóng đất nước, đừng bao giờ quên những năm tháng máu lửa, đau thương và hào hùng của dân tộc.
Ngay giữa thời bình, người lính vẫn ngày đêm chịu đựng gian khổ, trèo đèo lội suối, “ ghì khẩu súng trong tay với cơn sốt rừng già”, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc và cuộc sống yên bình của nhân dân:
“ Người ta nào biết đâu
chốn biên thuỳ hoang dã
những viên đạn hận thù còn ẩn trong kẽ lá
hướng theo anh như vắt hướng theo người.
… Để phía lưng mình cuộc sống cứ yên vui
anh đã lấy ngực mình che chắn…”
( Một ngày không chiến tranh)
Phạm Doanh quan tâm những sự hy sinh, cống hiến cho cuộc đời, trong đó có sự dâng hiến của những người nghệ sĩ. Bài thơ Không thể đã khái quát bằng hình tượng những những đóng góp cho cuộc đời của Cảnh Dương - người nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa::
“ Ống kính quay, ống kính lại quay
Cả mộ chí, vầng trăng, nụ hôn, bầu sữa
cả mây vàng, gió đỏ, đất thở, chim bay…
cứ hiện lên, cứ hiện lên rực rỡ
Ống kính quay, ống kính lại quay”
( Không thể)
Tôi đã từng say mê chiêm ngưỡng tác phẩm Đất lành của Cảnh Dương với ý tưởng nghệ thuật thật độc đáo, chỉ một khoảnh khắc ( một khoảnh khắc mà một đời cầm máy săn tìm cũng không dễ gì có được), anh đã thu về cả cái hồn cốt của vùng đất cao nguyên Đắk Lắk đầy nắng gió và cũng đầy sức sống. Cảnh Dương đã có nhiều tác phẩm nhiếp ảnh đặc sắc, phản ánh những nét đẹp của đất và người Tây Nguyên, của đời sống đất nước, vậy mà có lúc anh cũng phải “giật mình” thảng thốt:
“ Đâu rồi khuôn mặt mẹ?
Một vầng sáng thiêng liêng mà anh không thể
cảm thấu một lần qua ống kính đời anh.”
( Không thể)
Người nghệ sĩ đã mải mê đi tìm cái đẹp, đến nhiều nơi, trải nghiệm bao điều mới mẻ, hấp dẫn, sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc cho cuộc đời nhưng lại “ không thể” ghi lại một vẻ đẹp bình dị, gần gũi và thiêng liêng nhất trong cuộc đời mình. Đọc phần kết của bài thơ, tôi lại thấy hiện lên hình ảnh cái “bãi bồi bên sông” trong truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu năm nào.
Với “ Lời ru của người mẹ nông dân”, nhà thơ đã thể hiện niềm cảm thương, xót xa cho cuộc đời vất vả của người phụ nữ nông dân trong cuộc mưu sinh khó nhọc, đầy may rủi, nhất là ở thời kỳ đất nước chưa đổi mới. Mỗi hạt thóc, củ khoai làm ra đều thấm đầy mồ hôi và cả những lo toan của người lao động:
“ Mỗi hạt giống nẩy mầm ra
Một cây lúa mọc trên da thịt mình
Mà khi hạt thóc thành hình
Lại lo chim, chuột … rập rình cướp đi!”
( Lời ru của người mẹ nông dân)
Mỗi giọt sữa ngọt lành mẹ nuôi con được vắt ra từ những sáng nắng chiều mưa, từ những nhọc nhằn cay cực của đời mẹ. Vì thế, lời ru của người mẹ cũng là lời nhắc nhở với cuộc đời:
“ À ơi … mai sau lớn lên
Dù con sống giữa ấm êm đủ đầy
Đừng quên bao nỗi đắng cay
Đọng thành những giọt sữa này…
À ơi!”
( Lời ru của người mẹ nông dân)
Nhà thơ Phạm Doanh cùng các văn nghệ sĩ Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thanh Chương, Đặng Bá Tiến, Văn Thanh, Nguyễn Bê (giáo viên), Hữu Loan, Bùi Minh Quốc, Đỗ Trọng Phụng. (Ảnh Nhà thơ Lê Vĩnh Tài cung cấp)
Phần II - Ấy là tôi - thể hiện những tâm tình, những nỗi niềm riêng của cái “ tôi” trữ tình nhà thơ trong cuộc sống. Bạn đọc thấy hiện lên hình ảnh một con người ở vùng nông thôn Bắc Bộ với những kỷ niệm tuổi thơ vui buồn, đói khát và nghịch ngợm:
“ Tìm miếng ăn dân dã chẳng dễ nào
ấy là tôi giữa một bầy trẻ đói
chiếc dậm rách đầm sâu không nhấc nổi
Nắm xôi thừa miếu vắng sợ ma thiêng”
( Hồi ức tuổi thơ)
Nhà thơ cũng rất chân thật với lòng mình và với đời như một lời tự thú: “ Ấy là tôi - một đứa trẻ tâm tà / mười tuổi trộm yêu ni cô mười sáu”. Mới mười tuổi đầu mà trái tim đã đập những nhịp yêu thương, nhung nhớ, đúng là một người nhạy cảm và đa tình, cái bệnh phong tình nghệ sĩ đã xuất hiện từ rất sớm. Từ giã tuổi thơ, trở thành một công nhân, một thi nhân, nhà thơ cũng trải qua nhiều cung bậc buồn vui trong cuộc sống, đôi khi cũng đầy uẩn ức và mặc cảm:
“ Trong thế giới đàn ông tôi là kẻ yếu hèn
Không dám sống mà cũng không dám chết
Để trái tim suốt đời mỏi mệt
Trả giá yêu thương bằng nỗi buồn đau.”
( Tự bạch)
Cũng chẳng mấy ai nói chuyện buồn gia đình trong thơ mình như thế. Có lẽ, cuộc sống gia đình không mấy ấm êm đã ảnh hưởng nhiều đến tâm hồn thi sĩ, đến cảm hứng và giọng điệu thơ. Trong giọng kể trầm buồn, chúng ta có thể cảm nhận được cái ứ nghẹn của một nỗi niềm. Anh đã phải chấp nhận, phải chịu đựng một bi kịch tình cảm, vui buồn không còn là lẽ tự nhiên, hồn nhiên của lòng mình mà vì trách nhiệm đối với con cái:
“ Tôi không sao hiểu nổi khúc bi tình
Làm tắc nghẹn những nhịp tim mạnh mẽ
Nhưng tôi biết là tôi không thể
Thiếu nụ cười trong mắt các con tôi”
( Tự bạch)
Cái “ tôi” trữ tình nhà thơ tự nhận mình là người “ yếu hèn”, lại là một tâm hồn đa cảm, nên thường có những xúc động yêu đương trong những nghịch cảnh, những tình huống éo le và cũng chỉ để lại nỗi buồn thương. Bài thơ Mảnh vụn gợi nhớ một kỷ niệm xúc động trong cuộc đời thi nhân: Tình cờ gặp lại người yêu cũ, nay là chủ nhân trong một tiệc rượu với bạn bè, khi những người đàn ông “ đã xỉn, đi nằm”, chỉ còn anh với người xưa, nhưng anh “ chẳng biết nói gì / Mà cũng chẳng có gì để nói”, để rồi:
“ Ra về nghe ngực mình đau nhói
Tôi biết tim tôi mảnh vụn đã găm vào”
( Mảnh vụn)
Tình yêu trong thơ Phạm Doanh không có những cung bậc cảm xúc nồng nàn, say đắm mà chỉ là những cảm xúc bất chợt, mơ hồ, xa xăm, buồn nhiều hơn vui, cảm giác hạnh phúc chỉ thoáng qua còn nỗi buồn thì đọng mãi. Tâm hồn yếu đuối ấy có những rung động yêu đương buồn và đẹp, một nỗi nhớ thường trực được màu sắc hoá: “ Một ngày xa em thôi / trăng đã vàng nỗi nhớ”, dù “ đã yêu là yêu thật / chẳng bao giờ yêu chơi!”, nhưng cũng đầy dự cảm chia lìa, tan vỡ với một câu hỏi tu từ nghi hoặc:
“ Lòng phập phồng lo sợ
biết đâu đêm nay đó
niềm tin em rạn vỡ
trăng tà trong mắt em?...”
( Trăng tà)
Một người con gái đi qua đời anh với cuộc tình ngắn ngủi, “ cuộc tình sương khói” nhưng đã để lại dư vị ngọt ngào và nỗi buồn ngưng đọng như “ giọt nước mắt không rơi”:
“ Ta mất nhau mãi mãi cũng đành
Hạnh phúc trong mơ làm sao níu lại
Nhưng dư vị một lần ân ái
Sẽ ngọt ngào suốt mãi đời sau”
( Giọt nước mắt không rơi)
Ấy là tôi thể hiện một cái “tôi” nội cảm, nhiều tâm sự và nỗi buồn thương. Anh thường trăn trở về sự sống, về ý nghĩa của cuộc đời, đôi khi là cảm giác cô đơn, thoáng màu sắc bi quan:
“ Khi màu xanh nhạt rồi
Thì ánh ngày cũng tắt
Tôi vùi vào đêm đen
Một mái đầu nhuốm bạc”
( Vô đề 2)
Nhà thơ thường hối hận về mình, về những nét cá tính mà anh cho là “ tha hoá” rồi tự day dứt, hối hận:
“ Tôi tha hoá nửa đời rồi
Vâng, tôi niềm nở với người không quen
Tôi tâng bốc bọn thấp hèn
Tôi đã đặt những đồng tiền lên môi.”
( Sám hối)
Sống trong cảnh nghèo khó ở buổi giao thời trước và sau khi đất nước đổi mới, nhà thơ thấu hiểu và cảm thương cho người vợ tảo tần, chung thuỷ, nhọc nhằn chịu đựng mà anh đành bất lực:
“ Những phiên chợ muộn em về
nụ cười khuất nẻo giấu che nỗi gì
Chắt chiu hạt bắp, mẩu mì
rau già chẳng nỡ ngắt đi cả tầu
Lánh xa bạn có chồng giàu
hẳn là không muốn để rầu lòng anh
Bao mùa lạnh cứ phong phanh
anh biết vậy mà anh đành làm ngơ…?”
( Đời anh của những bài thơ)
Người nghệ sĩ sáng tạo những tác phẩm, làm đẹp cho cuộc đời nhưng cuộc sống vật chất của mình và gia đình mình lại nhiều thiếu thốn, khó khăn đủ bề mà người gánh chịu nặng nề nhất chính là người vợ. Dù nhà thơ đã dâng tặng những bài thơ cuộc đời của mình cho người vợ hiền “ Đời anh của những bài thơ / Những bài thơ ấy bây giờ của em”, thì cũng chỉ là một niềm an ủi, an ủi vợ hiền hay an ủi chính mình. Cái tứ của bài thơ này gợi nhớ bài Thương vợ của Trần Tế Xương, tuy không cay cú, không “ hờ hững” như cụ Tú làng Vị Hoàng nhưng rất chân thật và đau đớn trong từng chi tiết.
Về thi pháp, thơ Phạm Doanh là tiếng thơ trữ tình điệu nói với giọng tâm tình, trầm lắng, không giàu nhịp điệu, không thể đọc ngân nga, lên bổng xuống trầm mà phải đọc giọng trầm, chậm, vừa đọc vừa cảm xúc và suy ngẫm. Tác giả sử dụng linh hoạt nhiều thể thơ phù hợp với nội dung cảm xúc của từng bài, trong đó phải kể đến những bài lục bát thành công như Lời ru của người mẹ nông dân, Vẫn còn mảnh đạn, Bất ngờ, Đời anh của những bài thơ. Nét nổi bật trong tập thơ là phần lớn các bài đều có tứ thơ khá độc đáo, thường là những xúc động của hồn thơ từ những tình huống, những nghịch cảnh, nghịch lý cụ thể. Chất thơ là sự kết hợp yếu tố tự sự với việc bộc lộ cảm xúc theo lối thơ cổ điển, nên bài thơ thường bắt đầu bằng các chi tiết sự việc và kết thúc là những suy tưởng, bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Anh ít đề cập đến những sự kiện, những biến cố có ý nghĩa xã hội rộng lớn mà là những mảnh vụn có ý nghĩa của đời sống được nhà thơ rung động và thể hiện, nhưng qua đó, người đọc cũng cảm nhận được những bước chuyển biến của xã hội. Cũng vì thế, thơ anh không có những hình ảnh rực rỡ, những biểu tượng kỹ vĩ, hiếm có những mỹ từ như “ Tổ quốc”, “ cách mạng”, “ anh hùng”, “ vĩ đại”, “ hoành tráng”, vv… mà chủ yếu là những hình ảnh bình dị, gần gũi, thân thương trong cuộc sống. Anh ít dùng những thủ pháp tu từ nghệ thuật, tuy cũng có những ẩn dụ khá độc đáo như các bài Áng mây của tôi, Gặp lại cánh chim xưa, tạo nên những ấn tượng mơ hồ, đa nghĩa rất thú vị. Ngôn ngữ thơ Phạm Doanh hết sức giản dị và tự nhiên, gần như nghĩ sao thì viết vậy mà không mấy dụng công trau chuốt, cũng không dùng những từ ngữ tân thời, cầu kỳ hay lạ hoá ngôn ngữ như nhiều cây bút khác. Người đọc chỉ cần đọc tên đề của tập thơ, của các bài thơ cũng dễ dàng nhận ra điều đó.
Tóm lại, tập thơ Ấy là tôi thể hiện rõ những nét phong cách thơ khá độc đáo, hấp dẫn, giàu màu sắc thẩm mỹ của nhà thơ Phạm Doanh. Đó là tiếng thơ trữ tình thế sự với giọng tâm tình, nhỏ nhẹ mà sâu lắng, là những nốt trầm xao xuyến của một hồn thơ đã trải qua nhiều biến cố, đã rung lên những cung bậc hạnh phúc và khổ đau trong cuộc đời./
***********
* Lấy từ câu thơ trong bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.
Nguyễn Phương Hà
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0