Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị
Ngày đăng: 14/10/2022 16:25
- Lượt xem: 289
- Thích
Ngày đăng: 14/10/2022 16:25
Ngày 14/10, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 6/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
Tham dự và chủ trì hội nghị tại điểm cầu Trung ương có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch nước; đồng chí Phạm Minh Chính, Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Vương Đình Huệ, Chủ tịch Quốc hội; đồng chí Võ Văn Thưởng, Thường trực Ban Bí thư; đồng chí Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ.
Về phía tỉnh Đắk Lắk, tham dự tại điểm cầu Trung ương có các đồng chí: đồng chí Nguyễn Đình Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Phạm Minh Tấn, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; đồng chí Phạm Ngọc Nghị, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh.
Tham dự hội nghị tại điểm cầu tỉnh Đắk Lắk có Phó Bí thư Tỉnh ủy Y Biêr Niê; các Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; lãnh đạo HĐND - UBND tỉnh; lãnh đạo các Ban xây dựng Đảng của Tỉnh ủy; lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh.
Quang cảnh Hội nghị tại các điểm cầu trực tuyến. Ảnh: PV
Tại hội nghị, đại biểu tại các điểm cầu đã được nghe Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh báo cáo những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 23. Cụ thể, theo đánh giá của Bộ Chính trị, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Tây Nguyên, khu vực này đã phát huy những tiềm năng, lợi thế để phát triển nhanh, bền vững, đạt được nhiều kết quả to lớn, rất quan trọng. Tuy nhiên, vùng Tây Nguyên còn những hạn chế, yếu kém, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế.
Với quan điểm, xây dựng và phát triển vùng Tây Nguyên phải kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường gắn chặt với quốc phòng, an ninh và đối ngoại, ngày 06-10-2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (gọi tắt là Nghị quyết 23).
Nghị quyết 23 xác định 5 quan điểm về phát triển vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 gồm: Phát triển Tây Nguyên nhanh, bền vững là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước là nhiệm vụ xuyên suốt, trọng tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển của các địa phương trong vùng và cả nước; Phát triển vùng Tây Nguyên phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, bảo đảm thống nhất, phù hợp với hệ thống quy hoạch quốc gia, phù hợp với chiến lược quốc gia về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu; Phát triển vùng Tây Nguyên theo hướng đẩy mạnh liên kết vùng, nội vùng; Xây dựng nền văn hóa Tây Nguyên tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, tôn trọng các giá trị văn hóa khác biệt giữa các dân tộc; Chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.
Đồng chí Nguyễn Đình Trung, Bí thư Tỉnh uỷ Đắk Lắk trình bày tham luận. Ảnh: TTXVN
Về mục tiêu đến năm 2030: Tây Nguyên là vùng phát triển nhanh, bền vững dựa trên kinh tế xanh, - tuần hoàn; giảu bản sắc văn hoá dân tộc, điểm đến đặc sắc, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế. Phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; hình thành một số sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn có thương hiệu quốc tế gắn với các trung tâm chế biến. Cơ bản hình thành hạ tầng giao thông quan trọng, hạ tầng số. Hệ thống thiết chế văn hoá được nâng cấp. Giải quyết căn bản vấn đề đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện. Hệ sinh thái rừng, nhất là rừng đầu nguồn và đa dạng sinh học được bảo tồn và phát triển; an ninh nguồn nước được bảo đảm. Quốc phòng, an ninh khu vực biên giới được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, duy trì ổn định. Tổ chức đăng, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố, tăng cường.
Một số chỉ tiêu đến năm 2030: Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 7 - 7,5%. Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 130 triệu đồng, tương đương 5.000 USD; tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm khoảng 29,5% trong GRDP; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 26,9%; khu vực dịch vụ chiếm khoảng 38%; thuế sản phẩm trù trợ cấp khoảng 5,6%; tỉ trọng kinh tế số khoảng 25 - 30% GRDP. Tỉ lệ đô thị hoá đạt khoảng 37,2 – 40,7%; tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới khoảng 85%, trong đó tỉ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao khoảng 50%.
Quang cảnh Hội nghị tại điểm cầu Đắk Lắk. Ảnh: Bình An
Giai đoạn 2021 - 2030, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt khoảng 6,5%; đóng góp của TFP vào tăng trưởng GRDP khoảng 39%. Đến năm 2030, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chúng chỉ đạt 25 – 30%. Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều duy trì giảm 1,0 - 1,5%/năm. Tỉ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm. Tỉ lệ cơ sở giáo dục đạt chuẩn quốc gia với giáo dục mầm non khoảng 60%; tiểu học khoảng 65%, trung học cơ sở khoảng 75% và trung học phổ thông khoảng 60%. Đạt 32 giường bệnh viện, 11 bác sĩ trên 10.000 dân. Tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 90%.
Đến năm 2030, tỉ lệ che phủ rừng đạt trên 47%. Tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư đô thị đạt 100%, ở nông thôn đạt 98%. Tỉ lệ chất thải nguy hại được thu gom, xử lý theo quy định đạt 98%. Đạt 100% đối với các chỉ tiểu: Tỉ lệ chất thải rắn nguy hại phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, cơ sở y tế được thu gom xử lý; tỉ lệ khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường. Đạt 95% tỉ lệ xác thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý theo quy định.
Tầm nhìn đến năm 2045: Tây Nguyên trở thành vùng phát triển bền vững, có nền kinh tế xanh, tuần hoàn; một số tỉnh trong vùng thuộc nhóm phát triển khá của cả nước. Hệ sinh thái rừng được bảo tồn và phát triển; hình thành một số khu du lịch chất lượng cao, điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Hình thành các vùng sản xuất lớn về cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, hoa vả trung tâm năng lượng tái tạo của cả nước. Hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ. Phát triển hài hoà giữa kinh tế với văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường và quốc phòng, an ninh; người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bản sắc văn hoá được phát huy và trở thành nền tảng để phát triển. Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc; biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; tổ chức đăng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường.
Cũng tại Hội nghị, các đại biểu đã được 07 tham luận của các đại biểu đại diện các bộ, ngành, địa phương gồm: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Giao thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban Dân tộc, các tỉnh trong vùng: Đắk Lắk, Gia Lai.
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Đây là hội nghị có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt, cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển nhanh, bền vững vùng Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. Khẳng định những kết quả đã đạt được, chỉ rõ tồn tại, hạn chế trong thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư nhấn mạnh, việc nghiên cứu xây dựng, ban hành Nghị quyết mới về vấn đề đặc biệt quan trọng này có ý nghĩa và cần thiết, thể hiện trách nhiệm của toàn Đảng và cả nước đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
PV
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0