Cuộc vận động sáng tác tác phẩm VHNT về các địa danh văn hoá, lịch sử, du lịch của tỉnh Đắk Lắk. Chào mừng Kỷ niệm 50 năm Ngày Chiến thắng Buôn Ma Thuột, giải phóng tỉnh Đắk Lắk (10/3/1975-10/3/2025); góp phần quảng bá Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 9/2025.
Tôi sinh ra bên dòng sông Lam - con sông đã cho thi sĩ Trần Mạnh Hảo tuyệt hứng để ông làm nên thi phẩm Sông Lam - một thi phẩm mà nhiều người con xứ Nghệ, nhiều nhà phê bình văn học nhận xét là tuyệt bút: “Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh/ Sông nằm hóa lục bát Nguyễn Du/ Sông đứng thành Hồng Lĩnh/ Sông đi thành ví giặm trời xanh...”. Thế nhưng, “duyên đưa lối, số dẫn đường”, năm 1987 tôi đến Đắk Lắk làm việc và gắn bó keo sơn với xứ sở này - nơi có dòng sông “chảy ngược”, mang cái tên khá gập ghềnh: Sê rê pốk. Và tôi đã yêu, có thể nói là máu thịt với Sê rê pốk, chẳng khác gì dòng sông Lam quê tôi.
Rừng soi bóng trên dòng Sê rê pốk (đoạn chảy qua Vườn quốc gia Yốk Đôn. Ảnh: Đặng Bá Tiến)
Người ta nói Sê rê pốk “chảy ngược”, vì nó không như hầu hết các dòng sông khác ở nước ta chảy về phía đông, rồi hòa mình vào biển Đông bao la; mà ngược lại nó chảy về phía tây, rồi gửi mình vào nước bạn Campuchia. Ngày ấy, tôi gặp Sê rê pốk như chàng trai trẻ đi tìm ý trung nhân, gặp được cô nàng vừa xinh đẹp, vừa cá tính và bị hút hồn ngay. Tôi bị hút hồn bởi vẻ đẹp của trùng trùng điệp điệp rừng xanh soi bóng trên dòng sông. Từ hai chi lưu của Sê rê pốk là Krông Na, Krông Nô, xuôi về thác Gia Long đến tận Bản Đôn, Ea Súp... đâu đâu rừng cũng ken dày. Rừng đẹp và có tính đa dạng sinh học cao, nhất là ở Vườn quốc gia Yok Đôn, có diện tích hơn 110.000 ha, có tới 1006 loài thực vật, 650 loài động vật; trong đó có nhiều động, thực vật quý hiếm, như voi, hổ, bò tót... các loài gỗ quý như cà te, cẩm lai, giáng hương... Nhiều chỗ bên dòng sông là những bãi cỏ xanh mượt mà, thỉnh thoảng lại thấy vài ba chú nai con tung tăng đùa nghịch và ung dung gặm cỏ. Ngày ấy rừng còn êm ả, thanh bình lắm!
Tôi nhận ra vẻ đẹp cá tính của “cô nàng Sê rê pốk”, ấy là vì dòng sông chảy giữa đại ngàn núi non, nhưng lại có nhiều chỗ êm ả, lửng lờ như cố tình làm mặt gương để rừng xanh soi bóng.
Ở những chỗ như thế thường quần tụ nhiều cá lớn. Tôi đã thấy những thanh niên Êđê, M’Nông mắt sáng da nâu, lướt thuyền độc mộc, tay cầm lao nhọn, đâm được những con cá lăng, cá chép cả chục kg. Nhưng vẻ đẹp cá tính nổi bật của “cô nàng” chính là những ngọn thác. Đoạn chảy trên địa phận Đắk Lắk của Sê rê pốk chỉ khoảng 125 km, nhưng có tới hơn một chục ngọn thác: Gia Long, Dray Sáp, Dray Nur, Trinh Nữ, Dray H’Linh, Bảy Nhánh... Mỗi ngọn thác mang một vẻ đẹp riêng: Nơi dịu dàng như mái tóc thiếu nữ buông dài, nơi lại kỳ vĩ, hoành tráng, thét gào dữ dội. Nhưng đẹp nhất trong các ngọn thác trên dòng Sê rê pốk là Dray Sáp và Dray Nur. Dray Sáp (huyện Krông Nô, Đắk Nông) có nghĩa là Thác Khói; bởi nước từ trên cao đổ xuống dữ dội, khiến bụi nước bay lên mù mịt như khói, tỏa mát cả một vùng rừng rộng lớn; giữa mùa khô dù ở đâu nóng nực, nhưng vào đây vẫn thấy mát lạnh thịt da.
Mỗi mùa nước và thời tiết khác nhau thác Đray Nur, Đắk Lắk cũng cho những vẻ đẹp khác nhau. Ảnh: Đặng Bá Tiến
Còn Day Nur (huyện Krông Na, Đắk Lắk) có chiều cao ngọn thác hơn 20m, trải rộng gần 100m, trông xa như cái mành nước khổng lồ. Sáng, chiều trên ngọn thác này, khi mặt trời chênh chếch rọi vào, liền hiện lên những chiếc cầu vồng lung linh bảy sắc, đẹp đến ngơ ngẩn hồn người.
Mỗi ngọn thác ở đây đều gắn với một huyền thoại hấp dẫn. Nhưng hấp dẫn nhất là huyền thoại về nguồn gốc thác Dray H’Linh (xã Hòa Phú, TP Buôn Ma Thuột). Người Êđê ở đây kể: Thuở ấy có chàng trai tên là Y Dông mặt vuông, trán rộng, khỏe và nhanh như hổ. Chàng yêu cô gái ở cùng buôn là H’Linh, có khuôn mặt đẹp như bông hoa mới nở, mắt long lanh như hai hạt sương mai... Hai người yêu nhau say đắm, nhưng vì cha mẹ hai bên đều nghèo, không có đủ trâu, bò, lợn, gà... để làm đám cưới mời dân làng theo phong tục, nên cha mẹ hai bên và già làng không cho họ lấy nhau. Y Dông buồn tủi, nói với H’Linh: Anh phải đi xa, tìm cách làm giàu, có thật nhiều của cải, sau ba mùa rẫy sẽ trở về làm đám cưới. Rồi họ chia tay nhau. H’Linh đợi Y Dông ba mùa rẫy, không thấy quay về liền đi tìm. Nàng đi qua mấy trăm buôn làng, mấy trăm ngọn núi cao, đi mãi, đi mãi... tới một ngày gặp sông Sê rê pốk, vẫn không thấy Y Dông. Nàng cất tiếng gọi người yêu vang vọng cả trời xanh. Không có tiếng trả lời. Tuyệt vọng, H’Linh gieo mình xuống dòng Sê rê pốk. Còn Y Dông, rời làng, nuôi mộng làm giàu, nhưng thất bại, đành quay về tìm H’Linh. Nghe tin nàng đã đi tìm mình, Y Dông liền tức tốc lần theo dấu H’Linh. Chàng đi quên ăn, quên ngủ. Khi đến bờ sông Sê rê pốk, Y Dông gọi H’Linh. Tiếng chàng như sấm động vào vách núi, vẫn không nghe lời đáp. Hay tin: nàng đã tuyệt vọng, gieo mình xuống khúc sông này, Y Dông vô cùng đau xót. Chàng liền nhảy xuống sông quyết tìm bằng được H’Linh. Lặn xuống đáy sông, Y Dông thấy H’Linh đã nằm chết trên tảng đá trắng. Chàng ôm lấy nàng than khóc và cùng chết với nàng dưới đáy sông. Cảm thương mối tình đẹp, thủy chung, Thần Sông đã hóa phép, biến xác của hai người thành một ghềnh đá lớn, nổi cao trên mặt nước, chắn ngang dòng sông. Ghềnh đá ấy đã tạo nên Dray H’Linh...
Các thác nước trên sông Sê rê pốk cũng là nơi có nhiều cá mõm trâu (anh vũ) - một loài cá có miệng xòe như mõm trâu rất chắc khỏe, có thể bám vào các tảng đá dưới chân thác, dù nước dội mạnh, chảy xiết. Nó được xem là “đệ nhất cá” ở Tây Nguyên, bởi cái mõm toàn sụn, ăn sần sật, giòn tan, còn thịt thì thơm, béo, ngọt, nướng trên than hồng chấm muối ớt, hoặc nấu lẩu măng chua/ me chua/ lá giang, ai đã ăn một lần thì nhớ suốt đời. Ngoài cá mõm trâu, còn có rất nhiều cá lăng, cá leo, cá rô cờ cũng là những loài cá đặc sản tuyệt vời của Sê rê pốk mà cái sự ngon của nó so với mõm trâu chỉ một chín một mười.
Thác Gia Long (Đắk Lắk) là nơi một số công ty du lịch nước ngoài đã tiến hành khảo sát để tổ chức tua du lịch mạo hiểm vào mùa mưa bằng đi thuyền kayak vượt thác. Ảnh: Đặng Bá Tiến
Nhờ Sê rê pốk cho nước, cá tôm, nhờ hai bên bờ sông là rừng cây cho bao thứ sản vật, nên bao đời nay người Êđê, M’Nông đã chọn những nơi thuận lợi nhất bên sông xây dựng buôn làng. Họ quần tụ nhau thành một cộng đồng với rất nhiều phong tục tập quán trong đời sống sinh hoạt, tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo. Phát triển nhất là Bản Đôn, ngày xưa từng là nơi tụ hội sầm uất, nơi giao thương giữa người dân ba nước Việt - Lào - Miên. Người Lào cưỡi voi băng rừng đến đây. Người Miên đi thuyền ngược dòng Sê rê pốk lên. Họ đến Bản Đôn để trao đổi vải vóc, mắm muối, các lâm sản quý, mua bán voi. Năm 1987 tôi đã có cả một mùa khô ở đây, được thấy rất nhiều lễ cúng: Lễ cúng bến nước, lễ cầu mưa, cầu mùa, lễ cưới cho voi... Đặc biệt nhất ở đây là các lễ cúng liên quan đến Thần Ngoách Ngoan (N’guăch N’goal) - vị thần cai quản loài voi. Bởi nhiều người ở Bản Đôn sống bằng nghề săn bắt thuần dưỡng voi, xưa họ từng làm giàu bằng nghề này, nên thần Ngoách Ngoan được người Bản Đôn coi trọng nhất, họ có câu ca: “Thần chiêng chỉ to bằng chiếc rìu/ Thần ché chỉ to bằng ngón tay/ Thần voi to bằng núi cao”.
Cũng vì con voi, thần voi là quan trọng nhất, quý giá nhất, nên ở Bản Đôn những ai săn được nhiều voi được dân làng nể phục tôn sùng là “Vua”. Nổi tiếng nhất là “Vua” săn voi Y Thu Knul (Khunjunob) từng săn được 498 con voi. “Vua” săn voi Ama Kông, từng săn được 297 con... Cũng nhờ săn được nhiều voi mà ở đây có hội đua voi độc nhất vô nhị trên thế giới.
Có thể nói Bản Đôn là nơi hội tụ của nhiều phong tục tập quán sinh hoạt văn hóa độc đáo bậc nhất Tây Nguyên; bởi cộng đồng dân cư ở đây có tới 5 tộc người (M’Nông, Êđê, Lào, Gia rai, Kinh) quần tụ trong một vùng đất chỉ khoảng 5 cây số vuông. Nhờ vào dòng sông Sê rê pốk dâng phù sa màu mỡ hàng năm, người Bản Đôn cùng gieo trồng lúa nương, cây trái; nhờ vào dòng sông có nhiều tôm cá; nhờ vào đại ngàn mênh mông ngay bên cạnh - chỉ cách năm, bảy lần quăng dao - phong phú sản vật; nhờ vào ý chí, nghị lực mạnh mẽ của mỗi con người nơi đây đã được tôi luyện trong nắng mưa, khí hậu khắc nghiệt của đất trời từ lúc mới lọt lòng, cộng đồng cư dân Bản Đôn đã cùng nhau tồn tại, phát triển, cùng nhau xây dựng xứ sở của mình thành một vùng nổi tiếng trong giao thương và trong đời sống văn hóa từ hơn 150 năm trước.
Đến bây giờ thì những cảnh đẹp của thác nước, rừng cây bên sông Sê rê pốk đã giảm nhiều do nạn phá rừng khốc liệt mấy chục năm qua, do thủy điện chặn dòng tích nước, khiến nhiều cánh rừng trơ trụi, sông vơi nước, thác cũng vơi dòng. Nhưng Sê rê pốk vẫn là cô gái đẹp có cá tính so với nhiều dòng sông khác. Các thác nước vẫn ngày đêm tuôn chảy, tung vào trời đất “tiếng ồn trắng” mê mẩn tai, mắt bao người, vẫn còn đó những khúc sông bình lặng, như gương trời soi bóng nhân gian. Văn hóa bản địa độc đáo, đặc sắc dẫu bị mai một, phai nhạt không ít, do văn hóa ngoại lai xâm lấn, nhưng vẫn còn nhiều, nhiều lắm những thứ thuộc về bản chất văn hóa của các tộc người không thể phai nhạt.
Vì thế, ngành du lịch ở Đắk Lắk vẫn có thể tạo ra nhiều sản phẩm hấp dẫn, như: Thưởng ngoạn vẻ đẹp thơ mộng/ hùng vĩ của các thác nước; chèo thuyền kayak mạo hiểm vượt thác vào mùa mưa; đi thuyền độc mộc dọc sông ngắm vẻ đẹp của sông, của rừng; vào Vườn quốc Yok Đôn xem thú, xem cây, ngủ lại trong rừng; ghé thăm các buôn làng ven sông, cùng hòa mình vào các sinh hoạt văn hóa của họ... Chẳng hạn ở Bản Đôn du khách có thể được xem voi, xem nhà sàn cổ của “vua voi” Y Thu, xem khu lăng mộ với rất nhiều tượng nhà mồ kỳ lạ, xem biểu diễn săn bắt voi và các lễ cúng, thưởng thức các món ăn như cơm lam, gà bản địa nướng than... Ở Hòa Phú (Buôn Ma Thuột) sau khi chơi thác Dray Nur, Dray H’Linh, nghe kể về sự tích các thác nước, du khách sẽ được thưởng thức món cá lăng, cá leo nướng, hoặc làm lẩu lá giang/ măng rừng tuyệt hảo...
Già làng bôi huyết lợn lên đầu voi trong lễ cúng sức khỏe cho voi ở Bản Đôn, Đắk Lắk. Ảnh: Đặng Bá Tiến
Bấy lâu nay các đơn vị du lịch trên địa bàn Đắk Lắk cũng đã tổ chức được một số sản phẩm du lịch kể trên, nhưng chỉ mang tính đơn lẻ từng sản phẩm, mạnh ai người ấy làm, chưa phối hợp tốt giữa các đơn vị du lịch để tạo thành chuỗi liên kết, thu hút du khách kéo dài hành trình, dùng nhiều sản phẩm tại nhiều địa điểm trên địa bàn tỉnh trong một chuyến du lịch. Mặt khác, hoạt động quảng bá du lịch của địa phương cũng còn mờ nhạt, chưa tạo được sức hấp dẫn, ấn tượng với du khách. Khách phương xa chưa hiểu nhiều, biết nhiều về các sản phẩm du lịch của Đắk Lắk. Vì thế hiệu quả từ hoạt động du lịch của tỉnh chưa cao. Năm 2023 cả tỉnh chỉ đón được 1,15 triệu lượt khách du lịch, doanh thu chỉ 925 tỷ đồng - một số quá nhỏ so với tiềm năng.
Muốn ngành du lịch của Đắk Lắk bùng nổ, không bỏ phí tài nguyên, đạt hiệu quả cao, thì việc liên kết giữa các đơn vị du lịch nhỏ lẻ hiện nay để tạo ra một chuỗi các sản phẩm đặc trưng không đâu có, gây ấn tượng mạnh với du khách, để khách đến rồi, thưởng thức rồi, vẫn muốn quay lại, là điều cần thiết mà Đắk Lắk phải hành động ngay./.
Đặng Bá Tiến
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0