Nhân lực cho lĩnh vực văn học nghệ thuật mới là điều quan trọng!
Ngày đăng: 04/12/2025 17:10
- Lượt xem: 77
- Thích
Ngày đăng: 04/12/2025 17:10
Vừa dừng tay chỉ bảo, trao truyền cho lớp trẻ cách thức biểu diễn các loại nhạc cụ truyền thống của người Ê đê trong một cảnh quay của tập phim Tình yêu với di sản (ký sự truyền hình 20 tập Đắk Lắk đến là mê!), NSUT Vũ Lân đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi ngắn mà thú vị: điều gì làm ông quan tâm nhất hiện nay đối với di sản văn hóa Đắk Lắk nói riêng, Tây Nguyên nói chung?
Ông nói ngay, dù nguồn kinh phí có lớn đến mấy mà không có người am hiểu văn hóa nói chung, văn học nghệ thuật (VHNT) nói riêng, để quản lý văn hóa, quản lý VHNT thì khó có kết quả như mong muốn. Với tâm niệm ấy, dù đã ngoài 80 tuổi, nhưng từ khi nghỉ hưu năm 2005, ông vẫn nhiệt thành tham gia các hoạt động văn hóa, VHNT, từ dạy đàn, dạy múa đến các hoạt động hướng về buôn làng.
Ông cho rằng, thời gian qua, sự đầu tư cho văn hóa, VHNT thật sự chưa xứng tầm với di sản to lớn, phong phú của các dân tộc Việt Nam. Năm 1943, đồng chí Trường Chinh đã soạn thảo "Đề cương Văn hóa Việt Nam", là văn kiện lịch sử quan trọng xác định nền văn hóa cách mạng Việt Nam, đề ra ba nguyên tắc "dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa". Các kỳ hội nghị văn hóa toàn quốc năm 1946, 1948 đều tổ chức trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh. Mãi đến năm 2021, hội nghị văn hóa toàn quốc mới được tổ chức lại với bài phát biểu quan trọng của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tất nhiên, sau khi nước nhà thống nhất, trải qua thời bao cấp, còn rất nhiều việc cần phải làm, cần phải ưu tiên hơn văn hóa, VHNT.

NSUT Vũ Lân đang hướng dẫn thanh niên Ê đê sử dụng nhạc cụ truyền thống.
Gần đây, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực văn hóa, VHNT khi Quốc hội thống nhất thông qua Nghị quyết số 162/2024/QH15 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 – 2035 với nguồn vốn lên đến 122.250 tỷ đồng. Chính phủ đưa ra nhiều giải pháp để phát triển công nghiệp văn hóa, góp phần phát triển nền kinh tế đất nước…
NSUT Vũ Lân nhớ lại, năm 1985, chuẩn bị cho sự nghiệp đổi mới, TW có tổ chức một đoàn công tác vào Đắk Lắk (cũ) khảo sát văn hóa Tây Nguyên nói chung, văn hóa đồng bào Ê đê nói riêng. Trong khi nhiều đơn vị “tranh thủ” báo cáo thành tích, thì NSUT Vũ Lân rất quan tâm đến thực trạng đang diễn ra ở nhiều địa phương. Ông nhớ lại: vấn đề thứ nhất, người Ê đê không du cư, minh chứng là nhiều buôn làng đã tồn tại ở Tây Nguyên, ở Đắk Lắk hàng trăm năm nay. Người Ê đê bấy giờ chỉ luân canh, vì họ chưa biết sử dụng phân bón làm giàu đất đã bạc màu sau nhiều mùa vụ gieo trồng. Thứ hai, nên “trả Nhân dân” về cho chính quyền cấp xã. Vì ông đưa ra những ví dụ như ở xã Krông Nô giáp ranh với Lâm Đồng bấy giờ, 50% hộ dân đăng ký hộ khẩu với lâm trường, 50% hộ dân còn lại là cư dân của nông trường, xã không quản lý được họ, thì làm gì có nhân lực bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc? Có lặn lội xuống cơ sở hàng tuần, hàng tháng trời như thế thì may ra mới hiểu được thực trạng văn hóa ở địa phương đó như thế nào mà hoạch định các giải pháp phù hợp. Ông tán thành việc bỏ cấp chính quyền trung gian, hướng về cấp xã, phường, nhưng rất cần nguồn nhân lực có chuyên môn, am hiểu tận tường, nhất là lĩnh vực văn hóa, VHNT – 1 lĩnh vực rất đặc thù, thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay. Thực tế qua 6 tháng thành lập các xã mới ở phía Tây Đắk Lắk cho thấy, địa phương nào bố trí cán bộ đúng người, đúng việc thì đang vận hành khá ổn định, có chiều hướng phát triển tốt.

Biên kịch Trần Thanh Hưng và NSUT Vũ lân
Nhà văn Niê Thanh Mai, Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Đắk Lắk cho biết, hầu như không có sự kiện nào Hội tổ chức mời mà NSUT Vũ Lân từ chối, trừ khi ông đi ngoài tỉnh, ông tự đi xe máy đến nếu gần, không cần đưa đón. Ông hăm hở như sợ thời gian trôi qua rất nhanh mà không kịp trao truyền những gì ông dành hơn 30 năm gắn bó với Tây Nguyên để sưu tầm nghiên cứu, góp phần gìn giữ cho muôn đời sau…
NSUT Vũ Lân sinh ngày 19/8/1945 tại Hà Nội. Ông là sinh viên khoá 1 Trường Múa Việt Nam khóa 1959-1963. Từ năm 1963-1966, ông công tác ở Đoàn Ca múa Hà Nội. Từ 1966-1969, ông tiếp tục học biên đạo múa. Năm 1970, ông là Đội trưởng Đội múa của Đoàn. Năm 1982 ông vào công tác ở Đoàn Ca múa Dân tộc Đắk Lắk cho đến khi nghỉ hưu năm 2005. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSUT năm 1997.
Trần Thanh Hưng
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0