Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng mùa Xuân 1975, đến nay đã vừa tròn nửa thế kỷ, nhưng những âm vang hào hùng của nó vẫn rung động trong tâm hồn hàng chục triệu người Việt Nam hôm nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, cả dân tộc ta đã hành quân ra trận, vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, kiên cường, bền bỉ chiến đấu để làm nên chiến thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong chiến công rực rỡ ấy, văn học đã góp phần có ý nghĩa quan trọng và lớn lao, cổ vũ, động viên toàn quân, toàn dân ta tiến lên giành thắng lợi. Nhìn lại nền văn học chống Mỹ cứu nước để thêm tự hào, tin tưởng, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình.
Trước hết có thể thấy, văn học chống Mỹ cứu nước là một chặng đường ngắn trong tiến trình văn học dân tộc nhưng đã đạt được những thành tựu xuất sắc trên nhiều phương diện: Nội dung tư tưởng, thể loại, đội ngũ nhà văn đông đảo, đa dạng về tài năng và phong cách nghệ thuật. Sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước tạm thời chia hai miền với hai nhiệm vụ chính trị khác nhau: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Từ năm 1955 đến 1964 văn học tập trung ca ngợi sự hồi sinh của đất nước, cuộc sống mới, xã hội mới ở miền Bắc, thể hiện hình ảnh người lao động bằng cảm hứng lãng mạn đầy niềm lạc quan. Một số tác phẩm hướng về miền Nam với tình cảm sâu nặng, nói lên nỗi đau chia cắt và ý chí thống nhất đất nước. Chặng đường 1965 - 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ mở rộng trên địa bàn cả nước. Cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước. Đây là giai đoạn với những thử thách có tính chất sống còn, vô cùng ác liệt, đòi hỏi phải huy động triệt để mọi tinh thần và lực lượng cả dân tộc cho cuộc chiến đấu ấy. Văn học cả nước tập trung vào đề tài chống Mỹ cứu nước. Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện hình tượng Tổ quốc, nhân dân và những người anh hùng tiêu biểu, khơi sâu lòng yêu nước, cổ vũ chiến đấu và niềm tin vào thắng lợi.
Truyện ký cách mạng miền Nam đã phản ánh kịp thời cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam anh hùng với các tác phẩm tiêu biểu: Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Rừng xà nu, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (Nguyễn Trung Thành), Hòn đất, Giấc mơ ông lão vườn chim, Bức thư Cà Mau (Anh Đức), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi (Phan Tứ), Sống như anh (Trần Đình Vân)… Ở miền Bắc, văn xuôi cũng phát triển với những thành tựu đặc sắc: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (Nguyễn Tuân), Vùng trời (Hữu Mai), Chiến sĩ, Ra đảo (Nguyễn Khải), Những vùng trời khác nhau, Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Bão biển (Chu Văn), truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Vũ Thị Thường…
Ảnh: Duy Thương.
Thơ ca chống Mỹ đạt những thành tựu xuất sắc, tập trung thể hiện cuộc ra quân vĩ đại của cả dân tộc, khám phá vẻ đẹp tâm hồn và sức mạnh của con người Việt Nam, ý nghĩa thời đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiều tập thơ có giá trị độc đáo: Ra trận, Máu và hoa (Tố Hữu), Hoa ngày thường, chim báo bão (Chế Lan Viên), Hai đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt (Xuân Diệu), Đầu súng trăng treo (Chính Hữu), Vầng trăng quầng lửa (Phạm Tiến Duật), Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Tháng Tám ngày mai, Quê hương (Giang Nam), Bài ca chim Chơ rao (Thu Bồn), Hoa dừa (Lê Anh Xuân), Hoa dọc chiến hào (Xuân Quỳnh)… Thơ chống Mỹ xuất hiện đội ngũ nhà thơ trẻ tài năng, phong cách trẻ trung sôi nổi như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Xuân Quỳnh, Dương Hương Ly, Bằng Việt, Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa…
Ngoài truyện ký và thơ ca, kịch chống Mỹ cũng có những thành tựu đáng ghi nhận, những tác phẩm có tiếng vang: Quê hương Việt Nam (Xuân Trình), Đại đội trưởng của tôi (Đào Hồng Cẩm), Đôi mắt (Nguyễn Vũ). Nhiều công trình lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học có giá trị ra đời trong giai đoạn này, đặc biệt là các công trình của Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…Ở các đô thị miền Nam vùng tạm chiếm có bộ phận văn học yêu nước và cách mạng với những tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân tộc sâu sắc như Bút máu (Vũ Hạnh), Thương nhớ mười hai (Vũ Bằng), Hương rừng Cà Mau (Sơn Nam), Thưa mẹ, trái tim (Trần Quang Long).
Do yêu cầu của thời đại và nét cơ bản của hiện thực là cuộc chiến đấu khốc liệt, đầy gian khổ hy sinh và oanh liệt của dân tộc nên Văn học chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, phản ánh những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước, dân tộc và thời đại. Nhà văn có ý thức tự giác gắn bó với dân tộc, với đất nước và nhân dân, dùng ngòi bút để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu. Văn học hướng vào đề tài Tổ quốc, khai thác mâu thuẫn xung đột giữa ta và địch, đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Nhân vật trung tâm của văn học là người chiến sĩ và quần chúng cách mạng. Con người trong văn học được nhìn nhận và thể hiện ở tư cách công dân, ở ý thức chính trị, trong đời sống cộng đồng. Tổ quốc và cách mạng là cảm hứng lớn, đề tài xuyên suốt của văn học. Cảm hứng lãng mạn bay bổng, tràn đầy mơ ước, hướng tới tương lai, khơi dậy niềm vui và lòng tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Văn học chống Mỹ cứu nước đã sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về đất nước, về nhân dân. Những nhân vật điển hình kết tinh phẩm chất của cộng đồng, lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng như hình tượng người lính, hình tượng người anh hùng, hình tượng người phụ nữ, hình tượng Bác Hồ. Văn học chống Mỹ có sự phát triển phong phú và khá toàn diện về thể loại. Thơ đem đến một tiếng nói trữ tình quần chúng mới mẻ, khoẻ khoắn. Hình thức thơ cũng có những biến đổi tích cực theo hướng hiện đại, đa dạng; tăng cường chất chính luận, trí tuệ, khả năng khái quát ngày càng cao. Giai đoạn cuối cuộc kháng chiến xuất hiện nhiều tác phẩm trường ca với dung lượng lớn. Truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết và ký cũng phát triển phong phú và đa dạng về phong cách nghệ thuật. Kịch bản văn học, Lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học phát triển với vai trò khẳng định đường lối văn nghệ của Đảng, định hướng sáng tác, thưởng thức văn học. Đội ngũ nhà văn được tập hợp đông đảo với nhiều tài năng và phong cách đa dạng, hình thành và phát triển kiểu nhà văn - chiến sĩ. Nhiều nhà văn, nhà thơ đã sống, chiến đấu, sáng tác và ngã xuống trên chiến trường; nhiều tác phẩm được viết ra trên những nẻo Trường Sơn khó khăn hiểm trở, dưới chiến hào, dưới làn bom đạn ác liệt của quân thù. Đội ngũ nhà văn gồm 3 thế hệ: Lớp nhà văn trước Cách mạng tháng Tám, lớp nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, lớp nhà văn trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
Nhìn trong tiến trình văn học, văn học chống Mỹ cứu nước không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì điều kiện chiến tranh nên có nhiều khó khăn, trở ngại từ điều kiện sáng tác đến phổ biến và tiếp nhận của công chúng. Do yêu cầu của thời đại và hoàn cảnh lịch sử, văn học khó tránh khỏi sự phiến diện trong việc phản ánh đời sống. Con người được nhìn nhận và phản ánh chủ yếu trong quan hệ chính trị và ý thức cộng đồng. Đời sống riêng tư, những sắc thái tình cảm, tâm tình sâu kín của cá nhân ít được quan tâm thể hiện. Quan niệm phản ánh hiện thực trong quá trình phát triển cách mạng dễ dẫn đến việc quy lược hiện thực theo mô hình đơn giản, quy phạm, kiểu như: Ta thắng - địch thua; từ nô lệ đến tự do; “Từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”. Yêu cầu văn học phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị nhiều khi cũng dẫn đến lối viết minh hoạ đơn giản, thiếu sức thuyết phục.
Thời đại hội nhập toàn cầu ngày nay, do ảnh hưởng của nhiều khuynh hướng tư tưởng và học thuật phương Tây, trong đời sống xã hội và văn học đã xuất hiện những hiện tượng tiêu cực, những nhận thức và quan niệm lệch lạc về văn học chống Mỹ cứu nước. Từ một số hạn chế của văn học giai đoạn này (như đã nêu trên), một số người đã quy thành đặc điểm của nền văn học cách mạng là “văn học phải đạo”, “văn học minh hoạ”. Tình trạng tiếp thu thiếu chọn lọc, vận dụng máy móc, sống sượng các lý thuyết triết - mỹ phương Tây hiện đại, hậu hiện đại có chiều hướng gia tăng cũng ảnh hưởng đến việc nhìn nhận cảm thụ và đánh giá đối với nền văn học chống Mỹ cứu nước. Có quan niệm cho rằng, văn học nghệ thuật cách mạng đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, nên cần khép lại, không cần thiết nữa, không cần đưa vào chương trình giáo dục phổ thông. Chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay thiếu vắng những tác phẩm đặc sắc của văn học chống Mỹ cứu nước, phải chăng là một biểu hiện của cách nhìn lệch lạc đó? Chủ nghĩa hậu hiện đại là sự hoài nghi các đại tự sự, thể hiện thái độ mỉa mai đối với lịch sử. Khuynh hướng “giải thiêng” hoặc nhấn mạnh chức năng giải trí của văn học, coi sáng tác văn học là “trò chơi ngôn ngữ” cũng ít nhiều ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về giá trị của nền văn học truyền thống. Đó là những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc cần được phê phán và khắc phục.
Năm mươi năm nhìn lại, chúng ta càng yêu mến, trân trọng, tự hào về chặng đường văn học chống Mỹ cứu nước, một nền văn học đầy sức chiến đấu và tính nhân văn. Văn học chống Mỹ cứu nước đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên Độc lập tự do và Chủ nghĩa xã hội. Với những thành tựu đã đạt được trong việc phản ánh hiện thực cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, văn học, nghệ thuật nước ta “xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay”[1] như Đảng ta đã ghi nhận. Chúng ta cần tăng cường giáo dục cho thế hệ trẻ ngày nay tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào về truyền thống lịch sử văn hoá, tự hào về chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nền văn học của một giai đoạn đau thương, hào hùng nhất trong tiến trình văn học Việt Nam.
Nguyễn Phương Hà
* 1 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976)
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0