Văn học nghệ thuật Tây Nguyên thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Ngày đăng: 07/12/2022 09:25
- Lượt xem: 2917
- Thích
Ngày đăng: 07/12/2022 09:25
Biết có ở đâu trên trái đất này, chiến tranh liên miên, kéo dài hàng chục năm trời, như với đất nước Việt Nam? Hết kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, lại đến chống Tàu phía Bắc, chống Khmer đỏ ở biên giới Tây Nam. Và có lẽ cũng không có ở đâu, đồng bào các dân tộc ít người gắn bó chặt chẽ với cách mạng và kháng chiến như ở nước ta. Hồn nhiên đi theo cách mạng, lạc quan, tin tưởng đến ngày toàn thắng sẽ có một đất nước vẹn toàn, một cuộc sống ấm no. Trong những ngày cam go ấy, có không ít những tác phẩm và văn nghệ sĩ các dân tộc thiểu số (DTTS) Tây Nguyên, với sự sáng tạo của mình, góp những áng văn thơ, những bài ca, điệu múa, khúc nhạc... làm nên tinh thần lạc quan ấy.
Trong một lần về lại Tuyên Quang thăm nơi chôn nhau cắt rốn, vợ chồng tôi được Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh ngày ấy, nhà văn Phù Ninh đưa về những nơi căn cứ kháng chiến cũ, có cả địa điểm nơi cha tôi - người chiến sĩ Êđê Quân y Tây Nguyên - cùng Quân y viện 9 đóng quân phục vụ bộ đội. Lúc ấy, đứng giữa không gian bạt ngàn xanh của cây rừng, dường như vẫn nghe thấy rì rào lời chở che, bao bọc lấy cả quá khứ hào hùng lẫn hiện tại vô tư; tự dưng trong đầu tôi bật lên câu thơ của Tố Hữu “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc và Tây Nguyên đã thật sự là những căn cứ địa vững chắc của cách mạng qua những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cho đến ngày toàn thắng... Thời gian qua đã lâu, nhưng cảm giác ấm áp đứng giữa núi rừng kháng chiến vẫn còn âm ba trong tâm hồn tôi.
Cuộc đời đẩy đưa, hay các vị Yang linh thiêng của Tây Nguyên trao vào tâm hồn tôi không chỉ tình yêu văn hóa tộc người, mà còn cả những ký ức thân thương, đẹp đẽ về đất nước, con người miền núi, dân tộc suốt những tháng năm theo cách mạng, song hành cùng những cuộc kháng chiến vĩ đại của đất nước.
Ảnh minh họa
Từ cuộc sống biệt lập giữa rừng xanh và đất đỏ, Tây Nguyên lần đầu tiếp xúc với những chiến sĩ cách mạng đi xây dựng phong trào Việt Minh đánh Pháp. Những con người của nền “Văn minh Nương Rẫy” không có gì nhiều ngoài tấm lòng chân thật và niềm tin hồn nhiên vào cách mạng mỗi ngày một được củng cố. Sau kỳ họp Quốc hội khóa I năm 1946, những đại biểu ít người các dân tộc Tây Nguyên, đã mang tinh thần đoàn kết và ý chí quyết đánh thắng Pháp của Quốc hội, của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quê hương, khơi lên trong lòng bà con niềm tin tưởng son sắt vào con đường đi theo Cách mạng Việt Minh, đoàn kết một lòng giành độc lập cho dân tộc.
Có thể khẳng định, Văn nghệ DTTS Tây Nguyên thời kháng chiến chống Pháp chưa có bao nhiêu. Cũng không có nhiều tác giả. Nhưng lần theo những bến nước, rẫy nương của vùng đất đậm đặc của trường ca, sử thi huyền thoại, những lời nói vần răn dạy đạo lý và kinh nghiệm sống, những đêm hội rộn ràng tiếng ching chêng và náo nức vũ điệu suang vẫn có thể tìm được bài dân ca, ca dao với nội dung mới, ngân lên trong lòng dân sự quyết tâm chống giặc ngoại xâm, đoàn kết, động viên nhau cùng gìn giữ buôn làng, nương rẫy thân yêu... không chỉ theo Ama Djao, N’Trang Lơng, N’Trang Gưh, Ông Đăng, Bok Núp, cụ Mết... mà còn theo cán bộ, bộ đội Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Như bài ca của người Sê Đăng:
“Nước ta to/ Rừng ta lớn/ Ná tên ta nhiều/ Đếm không xuể/ Nhìn không xiết/ Pháp bao nhiêu tên? Chúng đánh núi ta/ Ta lại phải chịu?/ Một người không mạnh/ Trăm người chưa khỏe/ cả rừng đánh được/ cả núi đánh nhanh/ Lấy người Kinh làm anh/ Tìm người Kinh làm em.../ Tất cả con một ruột/ Kết một lòng/ Nghe một tai/ Đốt đồn, chặt Pháp”...
Hay “Chúng đến cướp đất ta/ Chúng cướp Măng Đen để xây đồn/ Chúng lấy Măng Púc để lập bót/ Đốt làng ta làm đồn điền/ Chặt rừng ta làm đường ô tô/... Ta xuống phía Đông có anh em người Kinh/ Ta lên phía Tây có anh em người Lào/ Lũ giặc nào ta cũng chẳng sợ...”.
Người Jrai hát cổ vũ thanh niên “Thi đua anh vũ trang/ Hăng lên anh bộ đội/ Anh nấp đánh đồn Bạc/ Vây chặt đồn Xơ Gai/ Giết Tây đồn Mơ Lá/ Đánh phá đồn Cheo Reo...” Và “Hãy đứng lên chiến đấu đồng bào/ Không bỏ đất ông bà cho Pháp/ Tranh đấu lâu ta sẽ độc lập”...
Dân ca Êđê thì lên tiếng kêu gọi “Giặc Xiêm nó đánh mạnh/ Giặc Pháp nó đánh dữ/... Anh hãy cầm cái ná/ Đi đầu quân N’Trang Lơng”.
Đây nữa “Ta quyết nối gót Aê Hmai/ Ta quyết theo chân N'Trang Lơng/ Ta là con cháu núi rừng hùng vĩ/ Sức ta cao hơn núi/ Lòng ta sâu hơn biển/ ...Năm nay nó chưa thua/ Năm sau ta đánh tiếp/ Cho đến khi rẫy ta được tự do/ Cho đến khi nước ta được độc lập”... Tinh thần ấy, ý chí ấy đã góp phần chống Pháp, giành lại độc lập, tự do cho quê hương Tây Nguyên, cho đất nước.
Cũng vào thời điểm này, để vận động quần chúng, đội Thông tin tuyên truyền của các tỉnh Tây Nguyên được thành lập, đem lời ca, điệu nhạc, cả những bài dân vũ Jrai, Êđê, Sê Đăng mềm mại, trữ tình hay sôi động, những bài ching cũng được mang tên gọi mới “Mừng chiến thắng”... trình diễn trên sân khấu đất giữa rừng, trong ánh lửa bập bùng tỏ mờ, không chỉ đem đến niềm vui mà còn tạo dựng cả niềm tin trong sáng vào sự nghiệp đấu tranh cho đất nước độc lập, giành lại tự do cho chính quê hương và dân tộc mình.
Một số bài dân ca được các Đội tuyên truyền thông tin, các ông Y Yơn, Nhật Lai sưu tầm đặt lời mới ca ngợi các chiến sĩ cách mạng đến với người dân Tây Nguyên, trở thành phổ biến, động viên bà con, như “Amiêt Man”, “Dăm Thơi”, “Tiễn đưa...” - Dân ca Jrai, “Gọi anh trở về” - Dân ca Hrê... Thậm chí ở vùng M’Drắk (Đắk Lắk) còn xuất hiện sử thi khuyết danh Săm Brăm, kể về thầy cúng người Chăm và phong trào “Nước xu” chống Pháp đã lan truyền khắp nơi, dẫu chẳng biết tác giả là ai. Những bài hát “Đing năm ca”, “Nhớ Cheo Reo”, “Chăn Đi bừng sáng”... của tác giả người Jrai Kpă Púi, cũng xuất hiện ở thời kỳ này mang thêm niềm tin mới mẻ vào cách mạng, đến với tâm hồn trong trẻo của lớp lớp con người hiền hòa, chân chất.
Văn học viết của các DTTS thời kỳ kháng chiến chống Pháp không có gì nhiều, ngoài một số bài thơ, ca dao của các chiến sĩ bị giam cầm trong các ngục tù ở Tây Nguyên như các nhà lao Kon Tum, Đắk Glay, Buôn Ma Thuột... mà Nhà thơ Tạ Văn Sỹ ở Kon Tum đã dày công sưu tầm. Đồng thời với 02 tác phẩm Văn học nổi tiếng ở cả 02 miền là “Đất nước đứng lên” (Nguyên Ngọc) và “Lửa rừng” (Vũ Hạnh).
Trên khắp chiến trường Khu 5 cũng xuất hiện một số ca khúc lấy đề tài và chất liệu dân ca Tây Nguyên làm động lực sáng tạo và cổ vũ kháng chiến, như “Tây Nguyên hành khúc”, “Em Juk”, “Tiến lên Lắk” (Đức Tùng & Hữu Tiến), “Du kích Ba Tơ” (Dương Minh Viên), “Dấu chân trên rừng” (Vĩnh An). Người có nhiều tác phẩm âm nhạc viết về Tây Nguyên nhất của thời kỳ này chính là Nhật Lai. Từ năm 1951 - 1954, khi làm công tác vận động quần chúng ở Tây Nguyên, bằng năng khiếu âm nhạc và tình yêu Tây Nguyên như một mối tình định mệnh, ông không chỉ sưu tầm, đặt lời mới cho dân ca các DTTS Tây Nguyên, mà còn sáng tác rất nhiều ca khúc dựa trên các chất liệu dân ca. Nổi tiếng và phổ biến hàng chục năm trong công chúng là các ca khúc “Thương anh cán bộ” - 1952, “Đợi chờ” - 1953, “Suối đàn T’rưng”, “Chim lạc đàn” - 1953...
Nghệ thuật Múa cũng đã định hình từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, với các đội Tuyên truyền văn nghệ, lấy âm nhạc goong ching làm nền, đưa các vũ điệu suang vào nghệ thuật chuyên nghiệp. Để sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những tiết mục múa Kông Tuôr, Dra Jú, Chư ka dăm dra... được bà con coi như dân vũ của tộc người mình.
Từ chất liệu múa dân gian Tây Nguyên hình thành không chỉ cơ bản múa của 06 tộc người ở trường Múa Việt Nam do các nghệ sĩ - giáo viên Múa xây dựng mà còn nhiều vũ khúc tiêu biểu suốt những năm dài là “vũ khí tinh thần” động viên quân dân Tây Nguyên chiến đấu, giữ nước. Nhiều điệu múa ra đời từ Đoàn văn công Quân khu V, được nâng lên tầm nghệ thuật cao, như Chàm Rông, Rông Ching, Khiêl...
Có thể khẳng định, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Văn nghệ DTTS Tây Nguyên chỉ mới có dân ca khuyết danh và tác giả âm nhạc Kpă Púi (quê ở Ayun Pa). Nhưng nghệ thuật diễn xướng dân gian, đặc biệt là âm nhạc và múa, cùng với mảnh đất và con người Tây Nguyên chân chất hiền hòa, tuy chưa hiểu gì nhiều, nhưng vẫn một lòng hướng theo cách mạng, đã tác động đến một số tác giả là những cán bộ người Kinh làm công tác vận động quần chúng, có năng khiếu âm nhạc, để có những ca khúc đầu tiên viết về vùng đất này. Đó cũng chính là tiền đề cho sự phát triển của nghệ thuật Tây Nguyên, là suối nguồn mát lành cho những sáng tạo văn học nghệ thuật đủ các chuyên ngành ở thời kỳ chống Mỹ cứu nước và thời hiện đại, chuẩn bị cho sự kế thừa từ các tác giả, kể cả người DTTS sinh sống trên Tây Nguyên hôm nay. Chi hội VNDTTS Đắk Lắk, một trong những nơi tập hợp văn nghệ sĩ các dân tộc đang hoạt động trên Tây Nguyên, sẽ là những người nối tiếp truyền thống ấy.
H'Linh Niê
Hội viên Hội VHNT Đắk Lắk
Tạp chí Chư Yang Sin số 363, tháng 11-2022.
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0