Có những chuyến đi dù chỉ ngắn ngủi, nhưng lại đủ sức làm thay đổi cách ta nhìn thế giới, làm ta nhớ mãi vì quá nhiều điều đẹp đẽ. Trại Hạ Xanh 2025 với tôi chính là một hành trình như thế, một hành trình đặc biệt, nhẹ nhàng mà sâu sắc, nhỏ bé mà lại đầy ắp kỷ niệm khiến tôi không thể quên,nơi tôi học thêm nhiều điều và lặng lẽ lớn lên từ từng trải nghiệm nhỏ.
Trước kia tôi, tôi đều dậm chân tại nhưng hành trình có sự góp mặt của bạn bè, thầy cô hay là bố mẹ. Có lẽ rằng vì tôi vẫn còn sợ sệt hay thiếu tự tin. Bởi vậy, ngay từ khi nghe tin mình được tham gia, tôi mừng rỡ vì lần đầu tiên tôi được tham gia một chương trình mà không quen biết ai,trong tôi đã nôn nao một cảm giác vừa háo hức vừa hồi hộp. Tôi mong chờ được khám phá những điều mới mẻ, được đặt chân đến những địa danh mà trước đây chỉ nhìn qua ảnh hoặc nghe thầy cô, bạn bè kể. Và hơn hết, tôi mong rằng chuyến đi này sẽ mang đến cho mình cơ hội hiểu hơn về mảnh đất Tây Nguyên vùng đất tôi đang sống, vùng đất có những câu chuyện thật đẹp hòa cùng tiếng gió và tiếng nhịp cồng chiêng. Đặc biệt, tôi muốn mình mở lòng hơn, mạnh dạn hợn để có thể quen biết được thêm nhiều bạn bè, anh chị và thầy cô.

Trại sinh Trại bồi dưỡng sáng tác VHNT Hạ Xanh năm 2025 tại Bảo tàng Thế giới cà phê.
Trại Hạ Xanh 2025 quy tụ 45 trại viên là học sinh, sinh viên đến từ nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk và còn có sự góp mặt của các bạn đến từ trường Nội Trú Phú Yên (phía đông tỉnh Đăk Lăk), mỗi người một tính cách, một tâm hồn. Nhưng tất cả chúng tôi đều mang trong mình một nỗi niềm hân hoan, háo hức cho một hành trình sắp bắt đầu đầy thú vị.
Tôi không nghĩ rằng một chuyến đi ngắn như vậy lại mở ra cho mình nhiều cảm xúc đến thế từ sự ngỡ ngàng trước những công trình kiến trúc độc đáo, trước những dấu tích lịch sử, sự rung động trước những văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc M’nông, và sự yên bình khi đứng trước vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên. Mỗi điểm đến đều như một trang sách và mỗi câu chuyện đều để lại trong tôi những suy nghĩ sâu sắc.

Đầu tiên chúng tôi được đến tham quan Bảo tàng Thế Giới Cà Phê. Ngay từ khoảnh khắc đặt chân đến, cảnh tượng đầu tiên khiến tôi phải đứng lặng vài giây ngỡ ngàng, một không gian vừa hiện đại vừa mang đậm sắc thái văn hóa Tây Nguyên. Quần thể kiến trúc mô phỏng những ngôi nhà sàn dài của người Êđê, với 5 khối nhà mái uốn cong ngẫu hứng, kéo dài giữa trời xanh, giống như những con thuyền đang căng mình giữa biển gió Tây Nguyên. Công trình được xây dựng trên một quỹ đất rộng lớn với nhiều cây xanh bao quanh, tạo nên một không gian tươi mát, thoáng đãng. Tất cả các không gian phía trong được kết nối uyển chuyển với nhau theo kiểu kiến trúc đa hình, linh hoạt. Chúng tôi vừa tham quan, vừa lắng nghe chị hướng dẫn viên kể về những câu chuyện đầy thú vị của cà phê trên thế giới. Hơn thế mỗi trại viên chúng tôi đều ghi lại những hình ảnh, thước phim của hành trình thú vị này để lưu giữ nhưng kỉ niệm đẹp đẽ nhất của chuyến đi này.


Không gian bên ngoài Bảo tàng Thế giới cà phê.
Bước vào bên trong bảo tàng tôi như được mở ra một thế giới khác, không gian rộng lớn nhưng ấm áp, nơi mỗi bước chân đều vọng lên âm hưởng văn hóa bản địa. Chị hướng dẫn viên giọng nhẹ và truyền cảm, đã dẫn chúng tôi đi qua từng khu trưng bày. Chị kể cho chúng tôi nghe lịch sử hạt cà phê xuyên qua nhiều thế kỉ, từ khi xuất hiện trên thế giới đến lúc bén rễ tại Tây Nguyên, những dòng cà phê nổi tiếng, cách người dân bản địa gìn giữ và phát triển cây cà phê qua từng thời kì. Chị kể về hành trình của cà phê từ châu Phi đến Việt Nam, kể về cách của người dân Tây Nguyên khi gieo trồng loại cây này. Tôi ấn tượng nhất với không gian “Văn hóa cà phê”, nơi trưng bày hàng chục dụng cụ pha chế từ nhiều nước trên thế giới, mỗi món đồ như mang theo một câu chuyện riêng.
Điều khiến tôi thích nhất chính là khoảnh khắc chúng tôi được thưởng thức hương cà phê ngay trong bảo tàng. Tách cà phê nhỏ nhưng thơm nồng, vị đăng đắng hòa cùng chút ngọt nhẹ của sữa, chỉ vậy nhưng hương vị ấy lại khiến biết bao người phải say mê và nhớ mãi. Đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận trọn vẹn rằng cà phê không chỉ là thức uống mà là một cảm xúc, một nét văn hóa khiến con người ta phải dừng lại, hít sâu và lắng nghe.
Chị hướng dẫn viên nói rằng bảo tàng được xây dựng không chỉ để trưng bày, mà để kể câu chuyện về sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên, giữa truyền thống và hiện đại. Là “không gian sống”, nơi chúng ta tìm thấy sự kết nối bản sắc dân tộc với tinh thần toàn cầu, hướng tới một bảo tàng “sống” về văn hóa cà phê.

Trại viên có cơ hội tìm hiểu các nền văn minh cà phê.
Không chỉ bên trong, khung cảnh bên ngoài bảo tàng cũng đẹp đến nao lòng: bầu trời xanh trong, những tán cây cao khe khẽ rung mình trong gió, những khoảng sân rộng,… khiến cả nơi ấy hiện lên như một bức tranh bình yên. Đẹp đến mức ai nhìn thấy cũng chỉ muốn đứng lại thật lâu để ngắm, để nhớ.
"Thú vị hơn đó là không gian phía trong của bảo tàng được ốp toàn bộ bằng đá bazan núi lửa, nhờ đó chúng tạo nên vẻ đẹp vô cùng độc đáo, mang lại cảm giác mộc mạc không kém phần hiện đại và không thể tìm thấy ở bất cứ bảo tàng nào khác. Với ánh sáng tự nhiên được khai thác tối đa từ mái vòm và cửa sổ, tạo nên một bầu không khí thư giãn và dễ chịu. Khác với các bảo tàng truyền thống khác, nơi đây cho phép du khách chạm vào hiện vật, ngửi hương cà phê. Cách bày trí hiện vật cũng vô cùng khéo léo, tinh tế khiến tôi không khỏi ngạc nhiên: từ những chiếc cối giã cà phê thô sơ của người Ê Đê, các dụng cụ rang thủ công của người M’nông, đến những bộ sưu tập máy pha cà phê cổ của châu Âu. Mỗi món đồ dường như mang theo hơi thở của một thời kỳ mang đậm dấu ấn của vùng đất tây Nguyên cũng khiến nhiều du khách thích thú. Bảo tàng còn tái hiện hành trình lịch sử và văn hóa cà phê qua ba nền văn minh lớn: Thiền, Ottoman, và Roman."
Từng trải nghiệm nơi đây khiến tôi hiểu được rằng cà phê không đơn thuần chỉ là một thức uống nó là văn hóa, là ký ức, là linh hồn của mảnh đất Đắk Lắk.Bảo tàng không chỉ đẹp, mà còn khiến tôi hiểu rằng cà phê là tinh túy, là niềm tự hào của Đắk Lắk. Tôi thấy mình như chạm được vào linh hồn của vùng đất này.

Sau khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo của Bảo tàng Thế Giới Cà Phê, chúng tôi rời Buôn Ma Thuột để di chuyển xuống Lăk. Trên đường đi, cảm giác như những câu chuyện vừa được nghe vẫn còn âm vang đâu đó, hương cà phê vẫn như còn lẩn khuất. Ngoài cửa kính, cảnh vật Tây Nguyên mở ra rộng hơn, xanh hơn, những cánh rừng nối dài vô tận. Tôi tựa đầu vào ghế, nhìn những ánh nắng chiếu nghiêng xuống từng mái nhà, và chợt thấy lòng mình nhẹ hẳn đi, như được mang theo một món quà tinh thần sau những giờ khám phá đầy ý nghĩa.
Đường xuống Lăk đẹp đến lạ: những cánh đồng mở rộng, những mái nhà sàn thấp thoáng phía xa, tiếng gió phả qua từng khe cửa xe mát lạnh và trong veo. Tôi cùng các bạn, các anh chị vừa trò truyện, vừa háo hức mong chờ điểm đến tiếp theo. Nơi có hồ Lăk yên bình, có các bản làng M’nông đậm đà bản sắc, và còn có thêm những câu chuyện mới đang đợi chúng tôi phía trước.
Điểm đến tiếp theo của đoàn chúng tôi là Dinh Bảo Đại nằm trên một ngọn đồi thoáng đãng. Bên ngoài Dinh khoác lên mình sắc hường nhạt pha chút nâu đất, một gam màu lạ nhưng lại vô cùng hài hòa với cảnh quan núi rừng Lăk. Màu hường ấy không tươi, không gắt, mà trầm và cũ. Dưới ánh nắng sớm chiều, từng mảng tường lên màu rất dịu dàng, đầm ấm mang nét cổ điển đặc trưng của kiến trúc Pháp giữa đại ngàn Tây Nguyên.

Bước vào dinh, không gian trầm ấm, tĩnh lặng. Những căn phòng cũ, những khung cửa sổ lớn nhìn ra núi rừng khiến tôi cảm nhận rõ một nét gì đó uy nghi nhưng cô độc. Những vật dụng còn lại trong dinh gợi tôi nghĩ về một thời lịch sử đã đi qua nhưng vẫn âm thầm sống trong từng căn phòng bức tường, từng chiếc bàn, chiếc ghế. Dinh khiến tôi trầm lắng hơn. Tôi cảm thấy mình đang đi giữa hai thế giới một nửa của hiện tại sống động, một của quá khứ yên bình và có phần lặng lẽ.
Rời khỏi Biệt Điện Dinh Bảo Đại chúng tôi được đến Khu du lịch của chú Y Vinh. Đây là điểm đến khiến tôi thích thú và nhớ nhất. Chú Y Vinh với giọng nói rắn rỏi nhưng đầm ấm kể cho chúng tôi nghe về những chú voi - biểu tượng của Tây Nguyên. Chúng tôi được tận tay cho những chú voi ăn, từ những trái chuối vàng đến từng khúc mía ngọt. Khi đưa tay ra, tôi hơi sợ khi chiếc vòi to lớn của voi, nhưng cảm giác ấy nhanh chóng biến thành niềm thích thú. Như thể tôi đang chạm vào những sinh linh đã chứng kiến biết bao đổi thay của đại ngàn Tây Nguyên. Chú Vinh còn kể cho chúng tôi nghe về cách người M’nông đối đãi với voi. Với họ, voi không phải là gia súc hay công cụ lao động, mà là bạn, là người thân trong nhà. Họ nuôi voi từ thuở còn nhỏ, hiểu từ tính nết, hiểu cả niềm vui lẫn nỗi buồn với chúng. Voi cũng vậy chúng cũng hiểu và cảm cảm nhận được tình yêu thương của mọi người, chúng thông minh hơn những loài vật khác chúng có thể biết đâu là người tốt đâu là người xấu. Khi nghe chú Vinh kể, tôi mới hiểu vì sao những người M’nông ở đây có thể gắn bó với voi cả đời, đó không chỉ xuất phát từ sự chăm sóc mà còn là tình thương, là sự quý mến, tôn trọng dành cho loài voi.

Cùng tìm hiểu về đời sống của loài voi.
Nằm ngoài dự kiến, chúng tôi được đến thăm nhà bác nguyên Chủ tịch tỉnh, cũng là người từng tham gia thuần dưỡng voi vào những năm tháng hoàng kim của Lăk. Dù tuổi đã cao, bác vẫn chào đón chúng tôi bằng nụ cười ấm áp và nhiệt tình . Trong ngôi nhà nhỏ đầy dấu ấn thời gian, bác kể bằng giọng chậm rãi nhưng chứa chan cảm xúc. Trong mắt bác, tôi nhìn thấy niềm tự hào sâu sắc về văn hóa M’nông, nhưng xen lẫn trong đó là một nỗi buồn thầm lặng bởi số lượng voi ngày một càng ít, nhiều giá trị truyền thống đang dần lùi vào ký ức. Nghe bác chia sẻ, tôi thấy lòng mình nghẹn lại, xúc động mà lo lắng về những chú voi. Tôi hiểu rằng voi không chỉ là động vật, mà là linh hồn của núi rừng. Và người M’nông ở nơi đây chính là những người giữ ký ức ấy bằng tình yêu chân thật.
Bên cạnh khu du lịch của chú Y Vinh là hồ Lăk mênh mông, nơi tiếng nước hòa vào nhịp sóng vỗ ồ ạt. Gió từ bản làng xinh tươi thổi về mang theo chút lạnh đầu mùa, nhưng không khí lại trở nên ấm áp bởi những tiếng cười vang lên từ đoàn chúng tôi. Xa xa là những dãy núi trập trùng, khung cảnh yên bình đến mức chỉ cần đứng yên vài phút thôi cũng thấy tâm hồn mình nhẹ lại. Hồ Lăk cho tôi cảm giác như mình đang đứng trước thiên nhiên nguyên sơ, đẹp mà giản dị, nhẹ nhàng nhưng đủ khiến người ta say lòng.

Chúng tôi chào tạm biệt chú và các bạn voi và hẹn gặp lại vào tối nay hứa hẹn sẽ thật nhiều điều thú vị đang đón chờ chúng tôi.
Trời dần tối, những cô chú nghệ nhân M’nông trong bộ trang phục truyền thống xuất hiện nổi bật giữa sân. Tôi để ý những họa tiết trên váy áo của họ tinh xảo, sắc nét, màu sắc hài hòa mang đậm bản sắc núi rừng Tây Nguyên. Khi âm thanh cồng chiêng vang lên, vừa rộn ràng vừa linh thiêng, tôi có cảm giác như cả núi rừng đang được đánh thức. Tôi lặng nhìn nghi lễ cúng bếp lửa, nơi người M’nông gửi gắm ước vọng bình an, mùa màng thuận lợi và hạnh phúc cho buôn làng. Ánh lửa bập bùng chói rực, hòa cùng tiếng cồng chiêng, tiếng chiêng tre và những câu hát ngân vang của mọi người. Ôi, sao khung cảnh ấy vừa ấm áp, vừa khiến lòng tôi rộn lên niềm vui khó tả.

Các nghệ nhân còn trình diễn các nhạc cụ truyền thống, tiếng đàn t’rưng, tiếng hát hòa vào nhau như một bài hát cổ xưa. Đặc biệt hơn chúng tôi còn được các cô chú cho nếm thử hương vị của rượu cần, vị cay nồng hăng hăng, khiến tôi cảm giác như mình đang hòa vào cuộc sống của người bản địa.tôi cảm giác như mình đang hòa vào cuộc sống của người bản địa. đang hòa vào cuộc sống của người bản địa.

Nghi lễ khiến tôi cảm thấy mình thật may mắn khi được chứng kiến và tham gia văn hóa dân tộc cùng người dân ở nơi đây, một buổi tối đẹp và thiêng liêng đến mức không từ nào tả hết.
Một ngày mới bắt đầu chúng tôi di chuyển đến làng Yang Tao là nơi tôi vô cùng thích thú. Trên đường đến làng Yang Tao hai bên đường bạt ngàn là những cánh đồng xanh ngắt, những cánh cò bay, những chú trâu thi nhau gặm cỏ…Đến làng,các cô chú nghệ nhân đón tiếp đoàn chúng tôi thật vui vẻ và thân thiện, được nghe các cô chú chia sẻ nhiều điều hay về truyền thống làm gốm của người M’nông: lấy đất sét từ đâu, sơ chế đất như thế nào... Chúng tôi được xem các cô chú tự tay làm từ những chiếc bình, nồi, những chú voi đất… những cô chú thợ gốm làm việc nhẹ nhàng mà chăm chú, vừa khéo léo, tỉ mỉ hăng say bởi đây vừa là công việc yêu thích của các cô chú, vừa góp phần bảo tồn truyền thống dân tộc. Đất sét sau khi lấy về thì giã kỹ, đập để tơi, làm sạch tạp chất. Khi tạo hình, các cô chú đặt khối đất lên một tấm gỗ lớn, rồi đi xung quanh để tạo hình, dùng que tre mỏng, vải ướt hoặc vòng tre để định hình sản phẩm. Từng khối đất sét được nhào nặn thành hình dáng, rồi khắc những hoa văn tượng trưng cho văn hóa M’nông.

Gốm ở làng Yang Tao đặc biệt hơn bao giờ hết, không như các loại gốm khác người nghệ nhân sẽ ngồi im và xoay bàn xoay. Ở đây họ không dung bàn xoay thay vào đó là một khúc gỗ lớn, các cô chú nghệ nhân sẽ di chuyển xoay quanh bàn xoay. Đặc biệt và khác lạ hơn đó chính là họ sẽ nung lộ thiên, không dùng lò gốm đóng kín. Sau khi làm khô, sản phẩm được xếp lên nền đất, bên dưới là củi khô, rồi đốt cho đến khi gốm “đỏ rực”. Khi lửa đủ, họ dùng trấu hoặc mùn cưa để hun khói gốm, khiến gốm có màu đen bóng đặc trưng. Đây là một điểm khác lạ so với những làng gốm ngoài kia, nung lộ thiên chính là điểm đặc trưng của làng gốm Yang Tao.
Các cô chú nghệ nhân ở làng Yang Tao hiện lên thật chân chất và mộc mạc. Nước da rám nắng, nụ cười hiền hậu lúc nào cũng nở trên môi. Dáng vẻ họ giản dị nhưng đầy sự khéo léo, từ đôi bàn tay sần sùi mà nắn từng thớ đất, khắc từng họa tiết nhỏ. Nhìn họ làm việc, tôi cảm nhận được tình yêu nghề, sự tâm huyết và cả niềm tự hào lặng lẽ mà sâu sắc về nghề gốm truyền thống của buôn làng.

Cuối cùng chúng tôi vẫn phải chào tạm biệt làng Yang Tao. Điểm đến tiếp theo của chúng tôi chính là Đá Voi Mẹ. Trên đường đi, từ xa tôi nhìn thấy hồ nước trải dài bên cánh đồng những mảng hồng của hoa súng đang nở rộ, nổi bật giữa khoảng xanh của cỏ và mặt nước. Khung cảnh ấy chỉ cần nhìn từ xa thôi cũng đủ để ai nhìn thấy cũng phải trầm trồ.
Sau một 2 ngày dài trải nghiệm, chúng tôi tham dự lễ khai mạc tại khách sạn Sài Gòn – Ban Mê. Những tiết mục văn nghệ do chính các bạn trại viên thể hiện, những thước phim tua nhanh lại hành trình trong ngày của các tổ do các trại viên làm khiến ai cũng xúc động. Cô Thanh Mai cùng bác Thành Long chia sẻ những lời thật bổ ích và ý nghĩa. Chúng tôi đã đi cùng nhau, đã cười, đã khám phá, đã trưởng thành chỉ trong một hành trình ngắn ngủi.


Chuyến đi này đã để lại trong tôi thật nhiều cảm xúc, ấn tượng nhất với tôi là cô Thúy An, cô dịu dàng, kiên nhẫn, luôn quan tâm từng bạn, lúc nào cũng nở nụ cười và trò chuyện, gần gũi với chúng tôi. Chú An Quốc Bình cũng vui tính, thân thiện, luôn giúp bầu không khí thêm sôi nổi. Bên cạnh đó có chị Ngọc Oanh và chị Ngọc Ánh hai chị lớn của tổ chúng tôi, hai chị là sinh viên, rất thân thiện, nói chuyện dễ thương và luôn giúp đỡ chúng tôi như chị em trong nhà. Các anh chị và các bạn trong tổ chúng tôi cũng rất thân thiện và gần gũi luôn đoàn kết, cùng nhau học hỏi và khám phá những điều hay.
Kết thúc chuyến đi, lòng tôi vẫn còn đầy những âm vang đẹp. Tôi hiểu thêm về nơi mình lớn lên, yêu văn hóa Tây Nguyên hơn, và đặc biệt là học được cách nhìn thế giới bằng ánh mắt trân trọng hơn, sinh động hơn. Chuyến Trại Hạ Xanh 2025 không chỉ là một cuộc tham quan, mà là hành trình chạm đến văn hóa, thiên nhiên và trái tim của tôi. Nó khiến tôi lớn hơn, hiểu biết nhiều hơn và biết giữ gìn những giá trị đẹp đẽ của mảnh đất mà mình đang sống. Nó còn giúp tôi học hỏi được nhiều điều hay, bổ ích và vô cũng ý nghĩa. Tôi tin rằng nhiều năm sau, khi nhớ lại, trái tim tôi vẫn sẽ bồi hồi như khi nghe tiếng cồng chiêng vang lên, vẫn nhớ đến những thầy cô, anh chị bạn bè đã đồng hành cùng tôi trong hành trình ấy.
Nguyễn Thị Thanh Xuân
Trại Viên Hạ Xanh 2025
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0