Tác phẩm đạt giải Nhất cuộc thi sáng tác văn xuôi chủ đề "Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk - Những chặng đường phát triển" năm 2023.
VHNT- Tôi vẫn quen ngồi uống cà phê tại một quán cà phê cóc vỉa hè ở đầu đường Nguyễn Tất Thành, gần đài phát thanh truyền hình tỉnh. Tại đây, tôi thoải mái ngắm nhìn toàn cảnh ngã sáu Ban Mê, ngắm con đường Nguyễn Tất Thành lúc nào cũng tấp nập người và xe cộ. Lúc buổi sớm này, vài người uống cà phê bên tôi chợt đàm đạo rất sôi nổi về dự án cao tốc Buôn Ma Thuột - Nha Trang đã khởi công được mấy ngày.
Ngã 6 Ban Mê. Ảnh: Bảo Hưng
Từ chỗ tôi ngồi, quốc lộ 14 chạy xuôi về hướng đông, đến cách Buôn Ma Thuột năm cây số thì gặp một ngã ba. Quốc lộ 14 rẽ sang trái đi Plâycu, còn rẽ sang bên phải thì gặp đầu mối quốc lộ 21 xuôi xuống Nha Trang. Với tôi, hình ảnh quốc lộ 21 lúc nào cũng hằn sâu trong kí ức. Vì vậy, mặc dù sau năm 1975, quốc lộ 21 có tên mới là quốc lộ 26, thì xin bạn hãy rộng lòng cho phép tôi vẫn gọi đó là quốc lộ 21, suốt bài viết này.
Cái tin quốc lộ 21 Buôn Ma Thuột - Nha Trang là một cao tốc được khởi công đã thực sự chạm tới miền kí ức sâu thẳm như trầm tích trong tôi. Vào thời kháng chiến, địa phận tỉnh ở phía Bắc đường được gọi là cánh Bắc, địa phận phía Nam đường được gọi cánh Nam. Cán bộ, bộ đội, dân công, từ hai cánh muốn qua đường, thường phải qua lúc trời tối, theo sự dẫn dắt của giao liên. Tôi đã nhiều lần qua lại trên con đường này, thường ở cột cây số cách Buôn Ma Thuột 47 cây số. Trong những giây phút căng thẳng vượt đường, tôi vẫn thường ao ước đến ngày hòa bình để được đi trên mặt đường giữa thanh thiên bạch nhật. Chao ôi, cái ao ước quá đỗi bình dị mà phải mất hai mươi năm đổ máu, hy sinh của cả một dân tộc mới trở thành hiện thực. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh em tôi ôm nhau mừng hả hê trên mặt đường quốc lộ 21.
Những năm sáu bảy mươi của thế kỷ trước, từ trường của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như một áp lực thiêng liêng, cuốn hút trái tim khối óc của người Việt Nam. Tôi tốt nghiệp Đại học sư phạm, được Bộ Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và đào tạo) điều động chi viện cho chiến trường miền Nam. Tôi cùng tám thầy cô tổ về Đắk Lắk, khởi hành từ Hà Nội vào đầu tháng 12 năm 1965, đến tháng 4 năm 1966, lần lượt kẻ trước người sau đều về tới Đắk Lắk.
Nhật kí của tôi ghi khá kĩ ngày đầu tiên đặt chân đến đất Đắk Lắk. Xin trích nguyên văn một đoạn như sau:
“Ngày 14 tháng 4 năm 1966
Ba giờ chiều. Mình tranh thủ ăn qua loa chút cơm còn lại... Qua sông Ba lần thứ hai. Nhánh này chảy về xuôi gọi là sông Đà Rằng, Phú Yên.
1
Sông rộng và sâu. Nước trong vắt. Uống thỏa thuê... Giao liên kéo chiếc sõng giấu dưới nước lên. Chừng vài ba phút bơi xéo theo hướng xuôi dòng, chiếc sõng tấp vào bờ lau sậy. Địa phận Đắk Lắk đây rồi.
Ta xin chào Đắk Lắk. Sau bốn tháng, bảy ngày hành quân, giờ đây, ta đặt chân lên đất Đắk Lắk. Ta muốn hỏi Đắk Lắk thì ít, mà muốn hỏi chính ta thì nhiều hơn. Rồi đây cuộc đời ta ở Đắk Lắk sẽ diễn ra như thế nào? Ta có đầy nghị lực, đầy say mê và nhiều mơ ước hay sẽ chùn bước trước muôn ngàn thử thách mà ta chưa thể nào hình dung rõ ràng được? Đâu dám mơ gì to tát, cao xa. Ừ, dù cuộc sống có như thế nào đi nữa, ta mong đến khi chết, bên nấm mộ của ta, đồng loại bảo : "Đây là một con người". Chỉ vậy thôi, đã mãn nguyện lắm lắm. Còn ngay bây giờ đây, ta quyết không bao giờ là người của tuyến sau. Ta luôn sánh vai với các bạn của ta, với Paven Cooc saghin và Rita ở tuyến một. Ta yêu các bạn của ta biết bao nhiêu khi bước vào cuộc chiến sống mái này. Ôi cái câu hỏi "Con người ta sống để làm gì ?", sao cứ ám ảnh ta mãi." (1)
Chào Đắk Lắk là chào Buôn Ma Thuột, bởi Buôn Ma Thuột là thủ phủ, là linh hồn của Đắk Lắk.
Rồi tôi được phân công làm phóng viên cho báo Quyết Thắng của tỉnh ủy Đắk Lắk, có dịp theo các đơn vị chiến đấu tỉnh đội, huyện đội rong ruổi khắp địa bàn, bám trụ tại đội công tác cánh Đông của thị ủy đến mấy năm.
Tại đội công tác cánh Đông, vào năm 1972, tôi đã viết :
Tám năm rồi Đắk Lắk
Khác nào nơi chôn nhau
Cùng đồng bào đánh giặc
Vui sướng và xót đau.
Này nhé, vào giữa năm 1973, tôi và hai đồng đội của đội công tác được cử đi phối hợp hoạt động với một đại đội trợ chiến của tỉnh đội, gồm hai khẩu súng cối 82 ly. Vào Buôn Ma Thuột, mới biết thế nào là máu lửa của trận mạc.
Đơn vị chờ ở bìa rừng, lúc xẩm tối mới vượt qua vùng rẫy trống rộng bát ngát, chắc phải mất gần tiếng đồng hồ. Đến bờ một con suối rộng có tên là suối Bà Hoàng, thuộc ấp ba, nay thuộc phường Thành Công, thành phố Buôn Ma Thuột.
Tại chỗ suối Bà Hoàng, chúng tôi lội cắt ngang qua, hai bên địa hình nhấp nhô lên xuống bởi những quả đồi.
2
Qua suối là nội thị ngay. Dốc. Tối mù mịt. Anh em cõng bàn đế, vác nòng súng cối 82 ly trợt ngã nhiều lần. Đến khu nhà dân thì đường nhỏ hẹp lách qua giữa các căn nhà. Không biết rẽ theo đường nào. Người giao liên dẫn quân vào trận địa vốn là một chiến sĩ biệt động thành đã nhiều năm hoạt động tại ấp ba này dưới danh nghĩa một thầy tu. Mặc dù anh ta thuộc lòng mọi ngóc ngách đường sá ở đây, nhưng đội hình quân ta bị đứt trong đêm, nên anh phải đứng chờ tại các mối rẽ, không dám rọi đèn pin, không dám lên tiếng gọi, cho nên tiến độ hành quân đột nhập vào trận địa không diễn ra theo kế hoạch. Thậm chí, anh giao liên phải quay lại tìm mấy người lạc đường. Tới trường tiểu học La San (2). Hành lang trước phòng học rất rộng. Tôi đưa tay sờ mặt kính phòng học, dù trong giây lát tiến quân, vẫn nao nao ao ước ngày hết giặc, về lại mái trường. Cả đội hình vừa đi, vừa chạy qua trường bán công (3) gần đó. Khi chúng tôi vừa đến cổng thì lực lượng ta ở các nơi đã phát hỏa rộ lên. Nghĩa là đã đến giờ G, giờ nổ súng. Anh đại đội trưởng đơn vị trợ chiến cho biết cấp trên đã giao cho hai khẩu pháo của đơn vị anh làm nhiệm vụ khai hỏa trận đánh đêm nay. Vậy mà... Giờ thì chỉ biết khẩn trương dàn đội hình chiến đấu. Nhiệm vụ của anh em tổ công tác là treo lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng lên cột cờ giữa sân trường, rồi sau đó làm nhiệm vụ cảnh giới bảo vệ trận địa, sẵn sàng đánh chặn địch. Trời Buôn Ma Thuột sáng đỏ. Pháo xinhan tới tấp vọt lên. Thấy những đám khói màu đỏ, màu đen. Súng lớn, súng nhỏ nổ như âm thanh một đám rẫy lớn gồm toàn cây khô đã được phơi nắng năm sáu tháng đang cháy ầm ào như bão. Tôi và hai cô cậu đội công tác, sau khi kéo lá cờ xong, ôm súng ra án ngự cổng trường. Giữa sân trường, hai khẩu pháo nhịp nhàng phóng đạn. Cảnh tượng ấy sao mà cuốn hút. Bất chợt một tình huống kinh hoàng mà tôi không thể hiểu nổi đã đột ngột xảy ra. Một tiếng nổ dữ dội ngay tại một khẩu đội pháo, lửa cuộn lên như một khối cầu. Trong giây lát, tôi tự hỏi : "Sao chúng có thể phản pháo nhanh và chính xác đến mức như vậy ?". Không chờ ai trả lời, tôi và đồng đội biết ngay là đơn vị đã gặp nạn. Vì trắc trở đường sá, không làm được nhiệm vụ khai hỏa trận đánh nên anh em nôn nóng khi làm các động tác kĩ thuật trong chiến đấu. Một quả đạn chưa kịp vọt ra khỏi nòng thì đã có một quả đạn tiếp theo được bỏ vô. Thế là cả hai quả cối 82 ly cùng nổ một lúc. Nòng súng thép toác, toe ra như cọng rau muống bị chẻ nhỏ. Xạ thủ hai khẩu đội hi sinh gần hết. Một trận địa tang thương bởi xác người, bởi sự quằn quại, bởi tiếng kêu và mùi tanh của máu, mùi thuốc súng nồng nặc. Bốn bề Buôn Ma Thuột ầm ào tiếng súng.
Tôi ôm súng cảnh giới phía trước cổng trường, vừa mới quay mặt vô thì tai nạn đã xảy ra. Nếu tôi đã bước vô sân trường vài bước thôi, thì chắc mảnh đạn cũng không tránh tôi.
Tôi chưa hết bàng hoàng và cũng không nghe một lệnh mới nào, chỉ thấy mọi người lặng im rời khỏi trận địa. Qua tới trường La San, đang xuống dốc để vượt suối thì trong đêm tối, tôi nghe ai đó nói : "Ai là đảng viên, theo tôi". Lúc ấy, tôi không biết người nói câu đó là ai, đang đi phía trước hay phía sau tôi. Tôi chỉ biết đó là một câu ngắn gọn và nhỏ nhẹ, nhưng đó là một lời kêu gọi quá đỗi thiêng liêng. Trong đời tôi, có lẽ đó là lần duy nhất âm thanh của hai tiếng đảng viên làm xúc động đến chân tơ, kẽ tóc, nó đã vực mọi người dậy để đi tới, dẫu cho phía trước là gươm giáo đang chờ. Không ai nói một lời, đều quay lại trận địa. Chắc bây giờ cũng không ai nghĩ tới cái nguy hiểm của tình huống khi quay lại trận địa mà người lính thường gặp trong chiến tranh. Đối phương có thể đã phục kích chờ, có thể gài mìn ngay dưới xác tử thi. Trận địa im lặng một cách rùng rợn. Tôi cúi xuống một người nằm trên mặt đất. Anh ta nói : "Chắc tôi chết, cho tôi ra ngoài rừng... Tôi ở Phú Thọ". Dưới ánh đèn pin yếu ớt, tôi thấy anh ta bị thương quá nặng. Ruột đổ ra gần hết. Hai ống chân đều gãy. Tôi lượm tấm dù hoa của ai đó bỏ rơi trên sân trường, cố buộc chặt ruột anh lại và nói ; "Không sao, anh em còn cả đây mà... ". Nước mắt chảy tràn. Tôi cố lắm mới xốc được anh lên lưng mình, giữ chặt hai cánh tay anh về phía trước. anh như đã bất động. Chắc anh nặng chừng sáu mươi ký lô. Tôi còn đeo trước ngực hai khẩu AK, một của tôi và một của anh ấy. Cứ thế, nói cho đúng, tôi không thể cõng anh một cách gọn gàng, mà rất nhiều lúc anh tụt xuống, hai chân kéo lê trên mặt đường. Tôi biết trên cái hành lang rộng của trường La San, chắc chắn có để lại một vệt máu rất dài từ sau hai chân anh. Khi sắp xuống dốc san trường, tôi muốn đứt hơi nên để anh nằm xuống một đỗi. Đặt ngón tay lên mũi, biết hơi thở anh rất yếu. May sao có một người từ phía sau vượt lên. Qua ánh đèn pin, tôi thấy anh ta đội mũ tai bèo, mang hai khẩu AK trước ngực và sau lưng mang một chiếc gùi to đùng. Anh đỡ người lính bị thương lên lưng tôi và tay xách bớt cho tôi một khẩu AK. Không có anh phụ giúp, thì tôi không biết bằng cách nào để cõng người bị thương vượt suối rồi leo lên ngọn đồi thấp bên kia. Lúa trên đồi ngang gối. Người lính đã tắt thở từ lúc nào. Một con dao găm đào huyệt. May sao đất còn ngấm nước mưa. Anh bạn đường của tôi rọi đèn pin, lục trong chiếc gùi, lấy ra khổ vải đen bảy mét để khâm lịm. Tôi ngó qua ánh đèn pin, thấy phía dưới cái ba lô trong gùi là sắp lớp cơm vắt to hơn nắm tay. Hai con dao găm và bốn bàn tay cào lấp một lớp đất mỏng trên mộ. Chắc đã bốn năm giờ sáng. Khi đưa tay nắm quai chiếc gùi để mang lên vai, người bạn đường nói : "Lúc nửa đêm thì thiếu đòn khiêng tử sĩ, còn sáng nay lại thừa năm sáu vắt cơm... " Tôi nghe rõ tiếng nấc trong cổ họng của anh ta. Anh không khóc được nữa bởi đêm qua đã khóc quá nhiều. Chao ôi, cái thiếu cái thừa trong chiến tranh sao mà kinh khủng đến vậy...
Từ khoảng mười giờ trưa ngày 19 tháng 3 năm 1975, địch mấy lần ném bom trộm xuống Buôn Ma Thuột. Dưới suối Đốc Học, đình Lạc Giao, dãy nhà dân đoạn đường Nguyễn Thái Học, Đại đạo Tam Kỳ phổ độ - Tòa thánh Tây Ninh - Thánh thất Châu Thành, thuộc số 157 YJút cháy to. Trụ sở của Ủy ban quân quản thị xã đóng tại số nhà 73 Lê Văn Duyệt (4). Dãy nhà dân phía trước mặt Ủy ban quân quản bị bom, cháy rần rật. Từ Ủy ban quân quản, tôi bước qua, thấy toàn cảnh các ngôi nhà bị bom san bằng. Người còn sống kêu la như phát điên, lo đào bới, tìm kiếm người bị lấp. Tôi đứng trước thảm cảnh một gia đình chuyên buôn bán xi măng, xi măng bị vỡ tung tóe, bàn ghế, giường chiếu đều bị vùi trong xi măng, kể cả xác của hai đứa bé. Một bé gái chừng tám, chín tuổi, chín cả thịt. Kéo cánh tay em lên, da thịt tuột từng mảng. Phải dùng một vỏ bao xi măng và một cái áo để vừa đỡ, vừa kéo em lên. Một bé trai chừng ba tuổi bị vùi hẳn dưới bột xi măng. Tôi bới em lên và nâng em trước bụng, đạp qua gạch ngói đổ, đi thẳng ra đường và đặt em xuống tấm tôn rách nằm sát mép đường. Nhà bên cạnh, một em nhỏ mất hoàn toàn bộ não. Người cha đứng bên hầm, hai tay ôm mặt, nhãy cẫng lên, rồi đột ngột quay phắt người lại, bổ nhào xuống gạch đá. Ông ta chắc trong cơn điên dại...
Đến ba bốn giờ chiều, nắng vẫn còn gay gắt, mặt đường đặc kín người gồng gánh, lục đục đi tản cư.
Đó là tình cảnh đau thương cuối cùng mà tôi chứng kiến tại Buôn Ma Thuột. Buôn Mê Thuột của tôi hào hùng trong máu lửa và nước mắt. Và tôi còn nghĩ, trong lịch sử đấu tranh, thì Buôn Ma Thuột là hình ảnh thu nhỏ bao nỗi đau thương, ý chí quật cường của dân tộc. Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy năm Mậu Thân 1968, có đến 18.000 người dân Buôn Ma Thuột xuống đường và bị đàn áp đẫm máu, có khác chi các cuộc biểu tình Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 - 1931, có khác chi hào khí của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1941!
***
Tôi lại ngồi bên quán cóc cà phê. Nghe rất êm tiếng ba bốn chiếc xe máy chạy tới. Mấy thanh niên ghé uống cà phê. Họ trò chuyện thật sôi nổi. Thì ra, mấy anh bạn trẻ này rủ nhau vào rừng tìm kiếm hoa phong lan.
Hoa phong lan, hoa phong lan. Tôi đã ở trong rừng già chín mười năm, có thể nói là đã ăn ở với bạt ngàn hoa phong lan trên tầng cao, dưới tầng thấp. Có khi, trên hai cây tôi buột dây võng, có hoa phong lan sống gửi ở đó. Thế mà lạ lùng thay, tôi và đồng đội hầu như không để ý gì đến hoa phong lan dày đặc bên mình. Hẳn đó cũng là điều đặc biệt của cuộc sống chiến tranh.
Thời bình đã lâu rồi, yêu cầu đa dạng, biết đâu nay mai tôi lại nhập cuộc với đám trẻ, vào rừng lặn lội tìm kiếm phong lan, săm soi cái đẹp. Còn giờ đây, tôi chờ ly cà phê nhỏ giọt và ngắm nhìn vẻ đẹp của Ban Mê.
Tình yêu Ban Mê bắt đầu từ yêu vẻ đẹp cây bơ trĩu quả ở ngay góc sân trước nhà, yêu vườn cà phê bát ngát bông trắng xóa sau cơn mưa, rồi sau đó mấy tháng, trên cành lại khoe chi chít những trái chín mọng màu đỏ sẫm, biểu tượng cho tiềm năng giàu có của vùng đất bazan trù phú này. Trong vườn cà phê, nhô lên những hàng cây muồng chắn gió, lá thì xanh ngăn ngắt, nhưng hoa lại nở vàng quyến rũ. Đường tôi lên phố, qua vườn sầu riêng thoang thoảng hương thơm và khi rảo chân giữa phố, tôi lại hít mùi cà phê đang rang xay tại một cơ sở chế biến thực phẩm gần đó. Vài hôm nữa lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột khai mạc, sẽ có nhiều quán cà phê không đồng hào phóng mời khách trong nước và các bạn quốc tế. Và cơ quan thính giác của tôi cũng được đánh động bởi làn sóng âm thanh của vành đai tiếng chiêng bao quanh Buôn Ma Thuột. Ồ, đây là giai điệu hòa tấu của các dàn chiêng nổi tiếng của buôn Kósia phía đông, buôn Akô dhông phía bắc... Đó là những dàn chiêng cổ rường cột, làm nổi đình nổi đám trong các lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên. Và tôi thong thả rảo bước để nghe dìu dặt các ca khúc của Trịnh Công Sơn vọng ra từ quán cà phê Nhớ, quán cà phê Bâng Khâng. Tôi không dạo nữa, mà bước hẳn vào nhà hàng Đam San, bởi ở đây đang có Đêm nhạc Trịnh. Nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn chào đời tại Buôn Ma Thuột. Ông đã đi xa lâu rồi, nhưng hồn vía của ông vẫn mãi mãi còn neo đậu nơi đây với bao lớp người ngưỡng mộ.
Trịnh Công Sơn hát : "Sống trên đời sống cần có một tấm lòng...". Hiện thực lịch sử đất mẹ Buôn Ma Thuột đã chắp cánh cho câu hát của Trịnh bay xa...
Năm 1924, ông Phan Hộ là một thương nhân ở thị trấn Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa đã vận động một số người dân miền xuôi lên Tây Nguyên lập làng, lập nghiệp. Năm 1925, được sự giúp đỡ của ông AmaThuột và chính quyền địa phương, ông Hộ đứng ra lập ngôi làng của người Việt đầu tiên trên Tây Nguyên, có tên gọi là làng Lạc Giao. Cái tên Lạc Giao thể hiện mối giao hòa thân thiện của những người con Lạc, cháu Hồng đối với cư dân bản địa. Đồng thời, cái tên Lạc Giao vang lên như một lời thề đại đoàn kết dân tộc, cùng chung lưng đấu cật đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của thực dân. Năm 1928, ông vận động tiền của, công sức để xây dựng một ngôi đình bằng tre làm nơi thừa tự, cúng bái và cầu an cho dân làng. Đình Lạc Giao còn là nơi đi về của nhiều chiến sĩ cách mạng trong thời kỳ hoạt động bí mật. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, đình là nơi ra mắt của Ủy ban quân quản của Đắk Lắk (tiền thân của Ủy ban nhân dân tỉnh). Vì vậy, đình Lạc Giao đã trở thành một di tích lịch sử cấp quốc gia, làm rạng danh Buôn Ma Thuột, là điểm du lịch cuốn hút du khách.
Dân Buôn Ma Thuột nổi tiếng cần cù, hiền lành, là con Phật, đã gây xúc động cao độ tâm can đức Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại, nên bà đã cho xây dựng chùa Sắc tứ Khải Đoan ngay giữa Buôn Ma Thuột. Hoàng triều giao cho thứ phi Mộng Điệp đứng ra trông coi việc xây dựng, từ năm 1951 đến năm 1953 thì xong.
Ấy vậy mà Buôn Ma Thuột lại là nơi chất ngất những nỗi đau thương, hận thù. Đã đến Buôn Ma Thuột, ai ai cũng nóng lòng tới tận cái nơi có tên gọi là Nhà đày Buôn Ma Thuột.
6
Đây hẳn là một địa ngục do thực dân Pháp dựng lên trong thời kỳ 1930 - 1931, để đày ải, tra tấn tàn bạo hơn 4000 lượt tù nhân là những người chiến sĩ cách mạng trong cả nước. Nhưng chúng đâu có ngờ được, chính cái địa ngục trần gian này lại là lò tôi luyện ý chí kiên cường, bất khuất của người chiến sĩ. Chính từ đây xuất hiện nhiều chiến sĩ cộng sản ưu tú của Đảng ta và cũng chính tại đây, chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên tại Đắk Lắk được thành lập, chuẩn bị lãnh đạo cuộc khởi nghĩa cách mạng Tháng tám năm 1945 thành công, rồi kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đặc biệt, Buôn Ma Thuột lại vinh dự được chọn là nơi nổ súng điểm huyệt mở màn cho Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 toàn thắng.
Biết bao con người ưu tú của đất nước đã ngã xuống trong Nhà đày Buôn Ma Thuột và các mặt trận vùng đất đỏ bazan này để có ngày thắng lợi vẻ vang 10 tháng 3. Người Buôn Ma Thuột các thế hệ nối tiếp được sống cuộc sống hòa bình của những người đã ngã xuống để lại, lòng dạ luôn tri ân họ theo đạo lý uống nước nhớ nguồn. Không phải chờ đến sau năm 1975 Buôn Ma Thuột mới có một Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ và một Nghĩa trang liệt sĩ quy mô lớn, mà ngay trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cách trung tâm Buôn Ma Thuột nửa cây số, có một tấm bia được dựng lên mang tên là Bia Lạc Giao. Đó là bia tưởng niệm, nhớ thương, tri ân của người dân Buôn Ma Thuột đối với sự hy sinh anh dũng của hơn 100 chiến sĩ Nam Tiến và đồng bào các dân tộc Đắk Lắk đã tử nạn bởi cuộc tập kích của thực dân Pháp vào ngày 1 tháng 12 năm 1945.
Tôi bị cuốn hút bởi tính cao thượng, sâu thẳm trong tâm linh của người Buôn Ma Thuột. Còn trong đời sống lam lũ thường ngày, hành vi và lời nói của họ đưa tâm trạng tôi trở về với thanh thản, vui tươi.
Một buổi sáng, anh bạn Êđê buôn ChưEabur ven Buôn Ma Thuột, người cùng cơ quan tôi thời chiến, rủ tôi vô buôn dự lễ cúng sức khỏe cho voi. Ôi chao, tôi đã gồng mình lên để uống rượu cần qua nhiều buổi lễ ở buôn này. Lễ mừng lúa mới, lễ cúng bến nước, lễ bỏ mả, lễ cầu mưa. Vừa uống rượu vừa thưởng thức chương trình diễn xướng các làn điệu xoang của các cô gái hay nghe già làng kể khan thâu đêm suốt sáng.
Đến trước cửa nhà anh bạn, tôi gặp hai người đã lớn tuổi, chắc là vợ chồng. Người đàn bà đi trước, mang một gùi đầy ngọn bí, ngon bầu non. Người đàn ông đi sau, chỉ mặc khố, tay xách một xâu đến bốn năm con cá trắm, cá lóc to bự. Thấy vậy, tôi nói với người đàn ông: "Bán cho mình hai con cá". Ông ta lắc đầu: "Ứ,ứ, mình không bán cá đâu". Tôi hỏi tiếp: "Vậy xách cá đi đâu ?" . Giọng người xách cá đáp lại tỉnh bơ: "Mình ra phố cho nó cá, nó cho mình tiền. Có tiền, mình cho nó tiền, nó cho mình cái áo để cháu gái mình mặc chớ". Tôi nghĩ bụng: Mộc mạc, chân thành đến thế là hết cỡ, thật đáng yêu.
7
Từ chuyện cho cá, cho áo này gợi tôi nhớ lại một chuyện cũng thật đặc sắc về tính cách của người Êđê. Là chuyện của chính anh bạn mời tôi dự lễ cúng sức khỏe cho voi vào sáng hôm nay. Anh ta tên là Y Kho, tay xạ thủ săn bắn số một của ban tuyên huấn tỉnh thời chiến. Hễ anh đội đèn, xách súng đi là cơ quan chắc có thịt cải thiện bữa ăn. Một tối, tôi theo anh đi săn, đúng hơn là đi theo để tận mắt chứng kiến tài nghệ săn bắn của anh.
Chừng mười giờ đêm, gặp hai con cheo đứng giữa đường mòn. Lũ cheo bao giờ cũng nhìn chăm chăm vào đèn đội đầu của thợ săn. Y Kho lom khom bước chân chậm rãi tới sát hai con cheo. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh chợt ngồi xuống cách hai con cheo chừng bốn năm thước, còn khẩu súng CKC thì dựng đứng lên. Tôi chưa kịp hỏi thì Y Kho cúi mình tới phía trước và kêu lên "ha" một tiếng thật to. Hai con cheo giật bắn, hoảng sợ chạy ra hai phía. Còn Y Kho đứng dậy, nói với tôi: "Hai đứa nó là vợ chồng mà. Mình không bắn nó như mấy thằng Mỹ". Bước đi mấy bước, anh nói tiếp: "Chạy đi mỗi đứa một nơi. Tối nay, hai đứa nó không ngủ chung được". Tôi chỉ biết lặng người, xúc động. Xưa nay có câu: "Thương người như thể thương thân". Còn chàng trai Êđê này thương yêu và bao dung cả loài vật.
Buôn Ma Thuột đẹp, đẹp từ thiên nhiên, từ các lễ hội, đẹp từ lịch sử hào hùng, bi tráng của nó, nhưng trước hết là vẻ đẹp của diện mạo tinh thần của con người nơi đây.
***
Tôi sinh sống ở Đắk Lắk, Buôn Ma Thuột đã hơn nửa thế kỷ, tuy không giỏi giang bằng người, nhưng tôi đã sống hết mình, chưa bao giờ tụt lại ở tuyến sau, thời chiến cũng như thời bình, như tâm nguyện được giãi bày trong trang nhật kí ngày đầu tiên tôi đặt chân đến đất Đắk Lắk cách nay năm mươi bảy năm. Và Buôn Ma Thuột đã cho tôi hạnh phúc.
Tôi có một ngôi nhà nhỏ, một gia đình nhỏ. Với tư cách là một thầy giáo, tôi phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu các đơn vị giáo dục nhà nước giao. Trường sư phạm sơ cấp thời chiến tranh được tặng huân chương kháng chiến hạng ba. Trường cao đẳng sư phạm Buôn Ma Thuột và Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh được Thủ tướng chính phủ tặng cờ thi đua. Đấy cũng là niềm tự hào của tỉnh Đắk Lắk và Buôn Ma Thuột. Đặc biệt, sau khi nghỉ hưu, tôi tập trung viết tác phẩm văn học về đề tài cuộc kháng chiến chống Mỹ, và thành công nổi bậc của tôi là cuốn tiểu thuyết Từ sông Krông Bông. Tôi viết để trả ơn mảnh đất mà mình đã sống. Và rõ ràng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của đồng bào các dân tộc trên cao nguyên Đắk Lắk và Buôn Ma Thuột đã cho tôi những trang văn.
8
Quanh cuốn tiểu thuyết, có một chuyện nho nhỏ mà rất có ý nghĩa đối với tôi. Anh Trần Đình Hòa, người Nghệ An đi bộ đội sau năm 1975, sau khi giải ngũ, anh công tác tại trường Cao đẳng sư phạm Buôn Ma Thuột, thuộc biên chế tổ chăm sóc vườn cà phê của trường. Rồi anh cũng nghỉ hưu, sau tôi. Năm 2005, anh ra thăm tôi. Mở đầu cuộc gặp, anh nói ngay: "Em đã đọc hai ngày hai đêm liền, xong cuốn tiểu thuyết Từ sông Krông Bông của anh". Tôi xúc động, nói lời cảm ơn. Chuyện trò chừng mười lăm phút, tôi thầm nghĩ chắc anh có chuyện gì muốn nói với tôi mà còn lưỡng lự, nên tôi hỏi: "Còn chuyện gì nữa không anh ?". Anh cười, trả lời ngay: "Không, không có chuyện gì cả. Em ra đây chỉ để nói với anh là em đã đọc hai ngày hai đêm, hết cuốn tiểu thuyết của anh. Vậy thôi". Tôi có phần kinh ngạc và vô cùng xúc động. Không kinh ngạc sao được, khi cuốn tiểu thuyết của một cây bút không chuyên đã mày mò viết suốt mười năm, sách in 650 trang với khổ 16x24cm, thế mà anh chỉ đọc trong hai ngày hai đêm là xong. Dẫu là chuyện nhỏ, tôi vẫn hết sức trân trọng, luôn coi đó là một hạnh phúc của riêng mình.
Nay tuổi đã bát tuần nhưng tôi luôn cảm thấy gắn bó và hăm hở với Buôn Ma Thuột để đi tới ngày mai, cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội sáng lạn hơn. Mặc dù tôi biết, ở Đắk Lắk, Buôn Ma Thuột, vào một lúc nào đó có cuộc tụ tập đông người gây rối trật tự an ninh, thậm chí đã có cuộc khủng bố tàn bạo. Nhưng không sao, các lực lượng cách mạng của dân ta đã dập tắt nó ngay, cuộc sống mau chóng ổn định trở lại. Đồng thời, ta phải luôn cảnh giác, bởi các lực lượng thù địch và phản động quanh ta luôn trong tư thế hành động.
Cả địa cầu hôm nay là một thế giới không bình yên, bởi dòng chảy của lịch sử thế giới vẫn đang cuồn cuộn một cách dữ dội đúng như nội dung câu khái quát lịch sử của Mác và Ăng Ghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Lịch sử tất cả các xã hội cho đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" (5). Tư tưởng này của Mác và Ăng Ghen còn soi sáng lịch sử thế giới thế kỷ XXI và các thế kỷ tiếp theo khi mà chế độ tư hữu và chế độ người bóc lột người, là cái đáng ghê tởm và hổ thẹn nhất trong lịch sử tiến hóa của loài người, còn thống trị thế giới này.
May mắn thay cho dân tộc Việt Nam, nhờ có Bác Hồ và Đảng Cộng sản sớm tiếp thu, thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, nên đã lãnh đạo toàn dân hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, đánh thắng ách xâm lược của Pháp và Mỹ, để quy tụ non sông về một mối, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đắk Lắk, Buôn Ma Thuột đã đóng góp xứng đáng trong tiến trình lịch sử oanh liệt này của đất nước.
Cái ao ước bình dị được đi trên quốc lộ 21 giữa thanh thiên bạch nhật đã lùi sâu vào dĩ vãng. Bây giờ, tôi và đồng đội cùng với hàng triệu người Buôn Ma Thuột nắm tay nhau, mạnh bước trên xa lộ Hồ Chí Minh đông Buôn Ma Thuột, mạnh bước trên cao tốc Buôn Ma Thuột - Nha Trang, và mạnh bước trên đại lộ Võ Nguyên Giáp ở ngay giữa lòng Buôn Ma Thuột, một thành phố đang tăng tốc phát triển để xứng tầm là Trung tâm chiến lược của mái nhà Tây nguyên.
9
Tôi mạnh bước theo nhịp cảm xúc dạt dào. Buôn Ma Thuột và Tôi. Tôi và Buôn Ma Thuột. Một mối tình gắn bó keo sơn, máu thịt, đẹp một cách hài hòa.
Tháng 9 năm 2023
Trúc Hoài
Chú thích :
(1) Vượt dải Trường Sơn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, trang 216, 217
(2) Nay là vị trí Trường Chính trị thành phố Buôn Ma Thuột, đường Nguyễn Văn Trỗi
(3) Nay là Trường THCS Phạm Hồng Thái, đường Nguyễn Văn Trỗi, thành phố Buôn Ma Thuột.
(4) Nay là đường Xô-Viết Nghệ-Tĩnh, thành phố Buôn Ma Thuột
(5) Mác - Ăngghen : Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1974, trang 42.
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0