Tác phẩm đạt giải Khuyến khích cuộc thi sáng tác văn xuôi chủ đề "Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk - Những chặng đường phát triển" năm 2023.
VHNT- Chiếc xe khách chầm chậm đi vào thành phố khi Ban Mê còn chưa thức giấc. Mở tấm rèm cửa, tôi nhìn ra ngoài, trời đêm sương hãy còn mênh mông, bóng núi đồi nhấp nhô núi đồi xa thẫm.
Ảnh minh hoạ
Tôi gọi chú Hữu và Lam dậy. “Gần đến thành phố rồi, mọi người thức dậy chuẩn bị xuống xe nhé”. Phố xá dần hiện với những cột đèn đường rực sáng hai bên. Những chuyến xe xuôi ngược qua lại trên đường mang theo bao tâm sự. Đến bến đỗ của nhà xe Ngọc Thông, chúng tôi xuống bắt thêm một chuyến taxi nữa để vào thành phố nghỉ ngơi. Lam lỉnh kỉnh khuân hành lý xuống, rồi từ tốn cầm tay H’Met đưa vào hàng ghế ngồi chờ. H’Met có vẻ mệt, mặt mày nặng trĩu dù chuyến đi này em hằng mong đợi nhất. Em đã hơn một năm không về nhà. Bốn giờ sáng, chúng tôi về khách sạn được người chị đặt trước. Lên nhận phòng nhưng chẳng ai còn tâm trạng để ngủ được nữa. Chú Hữu ra ban công châm thuốc hút, khói trắng lẫn vào sương. Những đoá ngọc lan đầy cành vừa thức dậy toả thơm dài trong khuôn viên khách sạn. Gương mặt chú tư lự, nỗi lo dài ra mênh mông. Ngày mai vào buôn rồi sẽ thế nào? Người ta có đón tiếp mình không? Có bắt tội mình không? Lễ nghi ra sao? Sự có thành không? Tất cả những câu hỏi ấy chạy trong suy nghĩ của chúng tôi. Lam là người căng thẳng nhất, em dựa tường, cũng đốt thuốc, phì khói mông lung vào cây lá. Dáng hình Lam nhỏ con, da sạm nắng mưa. Tôi hỏi: “Lam đi xe có mệt không?”. Em trả lời: “Không mệt lắm anh Giang à. Em chỉ lo chuyến đi về nhà H’Met không biết sẽ thế nào. Có gì nhờ anh giúp cho em với anh nhé!”.
Vẫn câu nói đó, vẫn giọng nhỏ nhẹ như van lơn đó khi cách đây độ hai tuần, Lam hẹn đến nhà tôi. Đó là một ngày mưa còn bay đầy trời của tiết xuân xứ Huế, không khí hãy còn se lạnh, Lam đợi tôi cả một tiếng đồng hồ chờ tôi đi làm về. “Anh Giang ơi, em làm phiền anh ạ. Có chuyện này nhờ anh giúp em và gia đình em?”, vừa gặp tôi, Lam đã cất tiếng nói. Lam là một cậu em trong họ, ở cùng phường với tôi, nhà cách nhau tầm 1km. Em hay đi làm ăn xa, khi ở Đà Lạt, lúc ở Sài Gòn nên chúng tôi cũng ít gặp, thi thoảng gặp nhau mỗi độ tết về. Tuổi thơ của chúng tôi là những trận bóng trong xóm, những lần vào núi hái sim, ăn nấm rồi vẫy vùng bơi trên sông Vực. Nhà Lam nghèo, chú Hữu ba em bị khuyết tật ở chân, không làm việc nặng được. Mẹ vốn triêng gióng đi thu mua phế liệu, đồng nát nay vừa qua một trận ốm nặng cũng ở nhà. Hai đứa em, một đứa lấy chồng xa, một đứa còn tuổi ăn tuổi học, gánh nặng gia đình đè nặng trên vai Lam. “Em làm người ta có bầu rồi anh ạ?”, câu nói của Lam khiến tôi hơi sốc. “Được ba tháng rồi, lại là thai đôi”, Lam ngập ngừng nói tiếp. Tôi lại há hốc mồm. Lam năm nay 29 tuổi, mải mê lao động, chưa nghe thấy yêu ai, chưa dẫn cô nào về nhà, nay làm luôn cả ổ như thế thật khiến người khác không khỏi bất ngờ. Chuyện là năm trước Lam lại vào quận Tân Phú làm việc trong một xưởng may bao ăn ở trọn gói khi dịch Covid-19 dần ổn định. Em cặm cụi làm từ sáng đến tôi, ngơi việc mới thôi. Đối diện với xưởng của Lam có một xưởng may khác mà đa phần là công nhân nữ. Mỗi lần nghỉ giải lao, Lam dõi mắt qua xưởng hàng xóm và vô tình đụng phải đôi mắt của một cô gái. Đôi mắt to, ướt mộng mị, trong veo như mặt hồ sau cơn mưa thu. Đôi mắt biết nói, thẳm sâu cỏ hát, như rừng dang tay, như núi đón chào. Lam cảm nắng cô gái từ đó. “Em bị say đôi mắt của H’Met rồi ngẩn ngơ lúc nào không hay”. Và đón đưa, rồi hò hẹn, messenger nhắn qua, zalo gửi lại, độ 4 tháng sau trở thành cặp đôi đi đâu cũng có nhau. Cho đến hôm nay thì sinh ra chuyện vậy. H’Met vừa bước qua tuổi 18, Lam 29 tuổi, thôi thì cũng cố gắng làm cho mọi chuyện được thành toàn. Hai đứa yêu nhau không có lỗi, hai đứa bé trong bụng lại càng không có lỗi. “Em muốn… cưới H’Met… làm vợ!”, Lam nói như khóc, vừa muốn mà cũng vừa sợ. H’Met người Xơ Đăng, ở tận xã Ea H’Đing, huyện Cư M’gar. Nhắc đến Cư M’gar xa xôi nghìn dặm, bỗng dưng chàng Đam San trong sử thi hiện lên. Tôi nhớ không lầm thì xã Cư Suê chính là nơi khởi nguồn cho bản trường ca Đam San của người Ê Đê. Hình ảnh buôn làng quây quần quanh đống lửa múa hát, kể chuyện Đam San ngày nào ngày nào với bao chiến công hiển hách nào đánh hổ, thuần phục voi, trừng trị những tù trưởng đối nghịch, xứng danh anh hùng của đại ngàn Tây Nguyên. Một chút háo hức dậy lên trong lòng. Và Buôn Ma Thuột, thành phố của huyền thoại, ly café đam mê, những bài hát cao nguyên chất ngất hào sảng và cả con đường bụi đỏ lấm vào tim đã thuyết phục tôi. “Anh nhận lời giúp chú. Nhưng phải vào bàn với gia đình, nội ngoại nhà chú cho thống nhất”, tôi nói.
Tôi tìm hiểu tài liệu và qua những người bạn ở Tây Nguyên để biết thông tin thêm về người Xơ Đăng, đặc biệt là tục cưới hỏi của họ để giúp gia đình Lam. Có thể nói người Xơ Đăng có di sản văn hóa độc đáo thể hiện bản sắc Tây Nguyên như kiến trúc nhà rông, trang phục, lễ hội truyền thống, âm nhạc cồng chiêng... Về chuyện hôn nhân, ngày xưa, khi trai gái Xơ Đăng khi trưởng thành thì tìm hiểu và chọn cho mình ý chung nhân để làm vợ, làm chồng. Sau đó, họ báo với cha mẹ của mình để tìm người mai mối. Người mai mối là người có uy tín trong làng, am hiểu phong tục, có hôn nhân hạnh phúc, được dân làng kính trọng. Sau khi mai mối thành công hai bên gia đình tổ chức lễ ăn hỏi. Ăn hỏi xong mới đến lễ ăn cưới. Xem ra tục lệ cũng khá giống người Kinh. Tuy nhiên, mỗi phần lễ lại có quy định riêng. Lễ ăn hỏi được tổ chức tại nhà gái, đoàn nhà trai gồm ông mối, cha mẹ chú rể, nội ngoại, lễ vật nhà trai mang theo gồm: trầu cau, thuốc bột, thịt khô, cá, một con gà trống, một con gà mái. Nhà gái chuẩn bị một con gà sống, chủ lễ cắt máu con gà cúng trình tổ tiên và sau đó cô dâu, chú rể trao trầu cau cho nhau, thề nguyền suốt đời không bỏ nhau. Thời gian sau, khi đủ điều kiện về vật chất, lễ cưới tiến hành. Lễ vật nhà trai gồm có 2 vòng đồng đeo tay, 2 ống đựng thuốc bột, 2 vòng đeo cổ, chiêng, ché, vải dệt… Ngoài ra còn có trầu cau, thuốc bột, thịt khô, cá, một con gà sống, một con heo. Nhà gái chuẩn bị 2 vòng cườm đeo tay, rượu cần, củi, trầu cau và các món ẩm thực khác để chiêu đãi họ hàng. Sau phần nghi lễ cưới, họ hàng ăn uống, ca hát, nhảy múa, đánh trống chiêng cho đến khi say thì thôi. Xong lễ cưới tại nhà gái, cô dâu theo chồng về nhà trai, mang theo một bó củi tượng trưng cho việc chuyển mọi sinh hoạt của mình qua bên nhà chồng. Chừng ấy lễ nghi khiến chúng tôi bối rối và lo nhất là nhà gái yêu cầu phải có lễ vật như chiêng, ché, trang sức, heo, gà… thì thật là tốn kém. Nhà Lam đâu có thể lo nỗi. Nhưng đã quyết rồi nên vẫn đi, tôi bảo H’Met gọi điện trước cho người trong nhà rằng nhà trai sẽ vào tính chuyện gặp mặt trước để bàn việc cưới xin và báo tình hình của em hiện tại như thế nào.
Và rồi hôm nay chúng tôi đã có mặt tại Buôn Ma Thuột.
*
“Em xuống dưới sảnh đi. Chị tới rồi”, giọng chị Mai nhẹ nhàng và ấm áp trong điện thoại. Tôi sửa soạn, dặn dò cả nhà đi ăn sáng rồi lóc cóc chạy xuống. Hai chị em đèo nhau trên chiếc Grande hỏi han chuyện đủ điều. Chiếc xe lượn quanh thành phố. Ban Mê buổi sáng thật tinh khôi, hương cây cỏ dìu dịu trong không khí. Những con đường xanh mát, hàng cây dài hun hút vào đôi mắt sâu. Màu xanh phủ lên thành phố cao nguyên. Buôn Ma Thuột là thành phố của rừng thơm, thành phố của sử thi nghìn năm mây trắng, thành phố của những lời ca cất cánh bay xa. Trong quán café nhỏ, Siu Black đương ca: “Hương bay theo làn khói vẽ mùa xuân long lanh/ Hương bay theo làn tóc vẽ tình yêu mong manh”. Tôi soi mắt mình trong ly café, mùa xuân còn lại chấp chới trên cao. Tiếng ca vang lừng, trời mây cao nguyên thấm đượm đam mê. Ngàn xưa đất đỏ, ngàn xưa nỗi nhớ của buổi sáng đong đầy tất cả như hôm nay. Điếu thuốc châm trên môi, nhìn trời dâng tình xa xăm. Tôi hỏi chị Mai: “Cái tên Buôn Ma Thuột có tên tự bao giờ? Sao nghe hay và lạ thế chị nhỉ?”. Cả một câu chuyện lịch sử, địa danh học, ngôn ngữ, văn hoá bản địa đã tạo nên một cái tên rất đặc trưng. Chỉ nhớ là người Pháp gọi vùng đất này là Ban Mê Thuot, rồi người Việt dần đọc và viết thành Ban Mê Thuột. Sau năm 1975, thành phố lại được gọi là Buôn Ma Thuột cho đến tận bây giờ. Ấy vậy mà địa danh này cũng có nhiều cái tên được không ít người sử dụng một thời dù không chính xác nào là Buôn Ma Thuộc, Buôn Ma Thuật, Ban Mê Thuộc, Ban Mê Thuật, Bản Mế Thuột, Bản Mế Thuật. Nhiều người trẻ thấy dù từ nào đi nữa thì cũng chỉ có 3 từ viết tắt BMT, nên gọi BMT cho dễ nhớ, khỏi nhầm lẫn. Chưa đâu tôi lại thấy một thành phố lại có nhiều tên gọi như thế, nhiều cách suy diễn như thế. Nhưng đấy lại là tình yêu, tình yêu ban sơ, chân chất, ngọt ngào dành riêng cho thành phố cao nguyên đầy huyền thoại này. Buôn Ma Thuột bâng khuâng như muốn nói với tôi điều gì và tôi chờ đợi thật lâu để nói rằng: Tôi yêu phố núi này!
“Chị dẫn em đến nơi khá mới mẻ và đặc biệt này. Chắc chắn em sẽ thích!”, chị Mai cười bí ẩn. Chúng tôi lại bon bon một hồi rồi dừng xe ở một con đường nhỏ be bé, xinh xinh. “Đường sách. Hay quá!”, tôi reo lên. Ở ngay trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, con đường sách dài tầm hơn 100m từ hẻm số 2 đường Phan Chu Trinh đến giao đường Nguyễn Tất Thành. “Tháng 3 năm 2019, trong Lễ hội Cà Phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7, đường sách chính thức được khai trương. Kể từ ngày có đường sách, chị thường xuyên tổ chức những ngày hội đọc sách, giới thiệu tác phẩm mới, talk show, giao lưu với bạn đọc. Chỗ này là một địa chỉ mới của các bạn trẻ và những bậc phụ huynh coi trọng văn hoá đọc”. Chúng tôi đi dọc con đường sách dưới nắng sớm điểm tô từng kiốt nhỏ được thiết kế rất bắt mắt, không gian đậm chất núi rừng Tây Nguyên. Đây với những căn nhà bằng gỗ hai tầng nhiều màu sắc. Có những hiệu sách thuần tuý, có chỗ kết hợp café và sách. Trời hãy còn sớm nên nhiều hiệu sách chưa mở, riêng những quán café đã kín chật người. “Về nghe gió kể” chuyện đường sách được khắc rõ trên tường. Đây hiệu sách Ánh sáng, kia hiệu sách LMS cơ man nào là sách và cả không gian Lia playtime cho trẻ em vui chơi, đọc sách. Có cả một cây cột gỗ đủ sắc màu ghi tên các địa danh nổi tiếng ở Đắk Lắk, các hoạt cảnh 3D độc lạ, những hoa văn rực rỡ cao nguyên Tôi ấn tượng với 9 bức tranh tường tái hiện đời sống văn hóa đặc sắc của người Ê đê, hoạt động sản xuất cà phê đặc trưng của đại ngàn và những thắng cảnh tuyệt đẹp của Đắk Lắk. Chúng tôi check-in và chụp cơ man nào là ảnh rồi ngồi bên đường ngắm ban mai dần rực rỡ. Tôi không quên hỏi chị phong tục cưới hỏi của người Xơ Đăng ở Đắk Lắk. Chị dặn dò từng chút một và hy vọng mọi chuyện nhẹ nhàng. Tôi ngỏ ý mượn chị Mai chiếc xe máy để lo liệu việc của Lam và H’Met như đi mua quà vào thăm nhà gái, sắm sửa những thứ cần thiết cho chuyến đi vào đầu chiều và cũng dùng xe máy để tung tăng ngắm cảnh trên đường vào nhà gái. Tôi hẹn chị 1-2 hôm sẽ quay trở ra. Điện thoại lại rung lên, ở đầu dây Lam gọi tôi về giúp em chuẩn bị quà cáp.
*
Tôi đèo Lam ra chợ Trung tâm Buôn Ma Thuột. Hàng quà, bánh trái bày la liệt trên những con đường đi vào chợ. Chúng tôi cẩn thận hỏi giá cả từng loại hàng một. Duyên thay tôi vào một hàng quán bày biện quà khá bắt mắt. Nghe giọng cô giới thiệu mới biết cô tên Hằng, 57 tuổi, người gốc Phú Vang, Thừa Thiên Huế theo ba mẹ vào đây định cư đã 40 năm. Chúng tôi nhận đồng hương và cô hướng dẫn thêm mua những quà gì, gói ghém làm sao cho đẹp. Tôi lấy ra một ít trà, bánh, rượu chuẩn bị từ nhà, là quà tôi dành riêng cho Lam và gộp với hàng mua từ cửa hàng cô Hằng chia làm 5 thứ. Đó là một giỏ trái cây đầy màu sắc, một giỏ quà được gói giấy kính, thắt nơ đỏ, một két bia, một cặp rượu và hai con gà. Tất cả được chất lên xe máy chở về khách sạn. Đồng thời tôi cũng gọi điện thoại cho anh An, tài xế taxi do chị Mai giới thiệu đúng 11h đến đón. Tôi chạy xe máy chở chú Hữu, Lãm và H’Met đi taxi cho an toàn vì thai còn nhỏ, đường lại xa.
Chúng tôi đổ dốc xuống Tỉnh lộ 8, đất trời Cư M’gar mây trắng, trời trong kia rồi. Hai bên đường rẫy café xanh ngút tận chân trời. Ở đâu cũng thấy café, chỗ thì phơi hạt, chỗ đang rang, hương thơm vương khắp con đường. Qua thị trấn Quảng Phú, những vườn cao su hiện ra giữa vùng đất đỏ. Đến địa phận xã Ea H’Đing chúng tôi rẽ vào. Giữa tháng Ba, hoa dã quỳ vẫn nở cả một con đường, màu hoa nhuộm vàng những ký ức những ngày xưa lang thang cao nguyên cùng chúng bạn. Tôi dường nghe Klei khan vang lên “Hãy đánh những ching có tiếng âm vang. Những ching có tiếng đồng tiếng bạc, đánh nhè nhẹ cũng vang vọng khắp núi non”. Tiếng ching thiêng liêng, đầy quyền năng khiến khỉ vượn quên đu cây, sóc chuột quên đào hang, hoẵng đứng ngẩn, thỏ ngồi ngơ như trong Trường ca Đam San ngân vọng. Những chủ nhân đất cao nguyên ngày nào leo núi chỉ một sải, xuống thác chỉ một nhảy, thoáng đã đến nơi, thoắt đã đến chốn thật khiến người ta thán phục trong trí tưởng. Bây giờ đường đã rải nhựa phẳng lì, những đoạn vào các buôn đổ đường cấp phối sạch sẽ. Phải nói là Ea H’Đing quy hoạch rất tốt, trục đường chính thẳng băng, hai bên là những đường xương cá nối dài vào các buôn. Chúng tôi hỏi đường, may thay gặp những người dân rất nhiệt tình, có người bỏ cả công việc để chỉ đường, có người chạy xe máy đi trước bảo chạy theo sau. Tầm 12h30, chúng tôi đến cổng buôn H’Ring, một cảm giác vừa vui vừa lo thật khó tả. Buổi trưa trong buôn thật im ắng. Những người lớn ở trong nhà, người mắc võng ngoài cây. Trẻ em vui đùa bên những gốc mít mát mẻ. Theo chỉ dẫn của H’Met, chúng tôi rời con đường bê tông và rẽ vào đường đất đỏ. Trời khá nắng, con đường khô khốc, mỗi khi có chiếc xe nào chạy qua, bụi mịt mù chẳng thấy cả lối đi. Đang là mùa gặt, rơm rạ bà con phơi hai bên, hương lúa mới cắt thơm phảng phất giữa nắng trưa. Bố H’Met đi bộ ra tận đầu đường, gương mặt ông lộ một niềm vui lớn nhưng vẫn không giấu được vẻ căng thẳng. H’Met mở cửa xe, hai bố con ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi, em khóc nức nở. Tiếng khóc giữa ban trưa thương biết bao. Mẹ em cũng chạy ra. Cả ba người ôm nhau một hồi trước ngõ. Bố em tới chào chúng tôi, bắt một tay thật chặt rồi mời vào nhà. Anh An nhiệt tình phụ xách hành lý đâu vào đó tươm tất. Lam cảm ơn anh An và hẹn ngày anh ra đón. Trước nhà H’Met có một cây đào nhỏ, trái trắng lúc lỉu trên cành. Tôi đậu xe chị Mai dưới đó cách căn nhà của bố mẹ H’Met một khoảng sân đất. Đó là một căn nhà nhỏ tầm 30-40m2, mái lợp tôn, bốn bề quây bằng ván gỗ. Trước cửa ra vào, một cây thuỷ tiên rừng bung nở cánh hồng phớt trắng như thắp lửa. Cạnh nhà còn có một gian chứa xe máy cày, máy và vòi bơm nước tưới rẫy. Chúng tôi vào nhà và được mời ngồi trên chiếu hoa trải dưới đất. Đập vào mắt chúng tôi là ban thờ có hình ảnh Chúa Jesus hào quang rạng toả. Chúng tôi ngồi vào chỗ ngồi đã được bố trí sẵn, một ấm nước chè tươi được soạn ra. Lát sau, có mấy người nữa trong gia đình đến. Bố không giỏi tiếng phổ thông nên có chị dâu H’Met thông ngôn thêm. Ông tự giới thiệu “Bố tên là Y Đin, là bố đẻ của cháu H’Met đây. Còn kia là mẹ đẻ, cạnh đó là chị cả của mẹ H’Met, kế đến là em gái của bố, cô Uk và Kô Tim là anh đầu của H’Met”. Như đã phân công từ trước, tôi đại diện cho chú Hữu và Lam giới thiệu mọi người và thưa: “Lam và H’Met yêu nhau, nay gia đình từ ngoài Huế vào thưa chuyện với nhà gái, với bố Y Đin cho hai em được kết hôn. Vì đường sá xa xôi, điều kiện hạn chế nên mong nhà gái tạo điều kiện hết sức để cho Lam và H’Met đến được với nhau theo truyền thống cưới hỏi của địa phương đây ạ”. Nói rồi, chúng tôi bày biện quà cáp dành tặng cho gia đình. Ông Y Đin có vẻ thông cảm, ông quay ra bàn với mọi người trong nhà và quyết định rằng: “Gia đình bố rất vui được gặp mặt nhà trai. Thống nhất cho hai cháu đến với nhau. Tuy nhiên, gia đình là tín đồ Công giáo nên bố phải lên hỏi cha xứ mới quyết định nghi lễ được”. Và ông hẹn sáng mai là ngày Chủ nhật, ông đi lễ xong sẽ trình bày với cha, đồng thời dặn dò chúng tôi yên tâm. “Bây giờ cho gia đình bố mời cơm nhà trai. Mọi người tự nhiên dùng bữa nhé”. Chúng tôi cảm thấy yên bụng, nỗi lo đã bớt phần nào. Nói xong ông ra hiệu cho người nhà xuống bếp bưng thức ăn lên. Lam cũng mở quà lấy bia và gà ra mời mọi người. Sau đó, người nhà hai bên nội ngoại của H’Met lại tới 4-5 người nữa. Chúng tôi mở bia và cùng nâng chén, không khí dần cởi mở, câu chuyện rôm rả hẳn lên. Phải đến hơn 5h chiều, cuộc vui mới tàn. Chúng tôi đi nằm nghỉ. Riêng Lam và H’Met cùng nhau đi thăm anh em, họ hàng. Buổi tối, gia đình lại dọn cơm, tôi nói chuyện nhiều với Kô Tim. Ông Y Đin có 5 người con, 3 gái, 2 trai, 4 người đã có chồng, vợ, chỉ còn mỗi H’Met. Ai lập gia đình cũng được bố mẹ cho cất nhà riêng, lại cho rẫy, ruộng thêm để làm ăn quanh đó. Cuộc sống cũng tạm ổn.
Tầm 4h sáng, tiếng chuông nhà thờ ngân lên. Tiếng gà gáy xa xa báo hiệu ngày mới Ông Y Đin và gia đình dậy sửa soạn đi lễ. Độ 6h ông về, tôi mới thức dậy lang thang trên con đường buôn H’Ring. Nắng sớm Tây Nguyên trên những con đường đất đỏ, thảm hoa dại, màu xanh nương rẫy thổi vào ta một cảm giác vừa thân thuộc, bình yên, vừa hoang dã, kiêu hùng. Sương vẫn còn đọng trên lá cành, không khí thật dễ chịu. Trong buôn mùa này phảng phất mùi hương thầm kín của bao nhiêu là hoa. Những hoa cà phê trắng rẫy xa gần, hoa bơ bung xoã góc sân, hoa xoài thơm hồng đốm lửa và bạt ngàn hoa dại đầy màu sắc nở rực trên con đường đất đỏ. Mùi lá điều khô mục, mùi cây nứa mới cưa, mùi hồ tiêu mới hái, mùi đất bazan mới cày… thấm đẫm chất và sức vóc cao nguyên. Góc này bình yên mỗi sớm nắng về...
Sau bữa sáng, ông Y Đing và chú Hữu, tôi ngồi uống trà. Ông trình bày việc gặp cha: “Cha biết hoàn cảnh của Lam và H’Met nên cho hai gia đình tự tổ chức với nhau. Sau khi H’Met sinh con rồi mới tính chuyện liên quan đến nghi lễ nhà thờ”. Và ông cũng chia sẻ bỏ qua các lễ vật như chiêng ché, bỏ qua lễ hỏi. Hai bên thống nhất sẽ tổ chức lễ cưới ở bên nhà trai theo nghi thức của người Kinh. Mọi chuyện trở nên gọn nhẹ. Ngày giờ thì sau khi về sẽ báo lại cho nhà gái.
Trưa hôm đó, chúng tôi chia tay những người anh em Xơ Đăng của cao nguyên nghĩa tình, chân chất. Được bạn Kô Tim chở đi khắp buôn mới biết tình xóm giềng của đồng bào. Cứ hễ ai xây nhà mới lập tức 30 anh em có mặt, người làm móng, đúc trụ, người xây gạch, người hàn sắt, người lợp nhà… Tầm 10 ngày nửa tháng là xong cái nhà đúng nghĩa, đủ 2 phòng ngủ, 1 phòng khách, 1 bếp, wc. Và gia chủ không mất một đồng tiền công. Chẳng hạn nhà Kô Tim chỉ 11 ngày đã xong tất, anh em lại cùng nhau nâng ly Khánh thành. Thế, đời sống nhiều lúc đơn giản vậy, tình cảm là trên hết, chia sẻ cùng nhau là tất cả! Và hôm nay, niềm vui của Lam và H’Met ngập tràn khắp buôn H’Ring.
*
Tôi và chú Lam quay ra Buôn Ma Thuột để về trước, đôi bạn trẻ ở lại vài ngày. Bạn bè tôi ở Đắk Lắk bảo rằng nếu đến thành phố Buôn Ma Thuột mà không đến Ngã 6 Ban Mê xem như chưa đến Buôn Ma Thuột. Đã nhiều lần đến thành phố xinh đẹp này, không ít lần qua Ngã 6 Ban Mê nhưng chưa bao giờ tôi có nhiều thời gian để ngắm hết không gian của một khu vực giao thông huyết mạch, là chứng nhân, là di sản văn hoá, lịch sử và cả ký ức của không ít người. Thời gian còn lại của buổi chiều, tôi lang thang trên những con đường ngập nắng hoa vàng dịu ngọt. Đường phố như vung vẩy những dải xanh lục đậm đà lan khắp đất đồi cao nguyên. Hàng cây và những tiếng chim xao xác chiều muộn gợi chút gì để nhớ, để gần. Kiếm một quán café có view bao quát nhất khu vực này, tôi dõi ánh mắt của mình qua tượng đài, từng công trình kiến trúc, ngắm dòng xe ngược xuôi trong buổi chiều nắng mật. Ngã 6 Ban Mê là điểm giao thoa của 3 tuyến đường chính đi qua trung tâm thành phố bao gồm Phan Chu Trinh, Nơ Trang Long, Lê Duẩn và cũng là giao lộ của Quốc lộ 26 và Quốc lộ 14. Qua phương tiện truyền thông, các sự kiện trọng đại, các lễ hội như Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột, Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc... thường tổ chức diễu hành qua nơi đây, mang lại sắc màu tươi mới, rộn ràng cho phố núi. Muốn chứng kiến những đổi thay của Buôn Ma Thuột, những cuộc trở mình đô thị ngoạn mục điển hình nhất là nơi ngã sáu này. Thời Pháp thuộc, nhà thờ, công xưởng, nhà Giám đốc Lục Lộ, bến xe, khu phố chợ quây quần quanh đây. Trong chiến tranh, ngã Sáu chỉ là một bùng binh đầy cỏ dại, vài ba cột đèn hiu hắt giữa mù sương. Sau ngày thống nhất, Tượng đài chiến thắng Buôn Ma Thuột dựng lên, lịch sử qua trang mới, mang đầy sắc màu anh hùng của phố núi. Ngã Sáu Ban Mê là vị trí trung tâm, từng xảy ra các cuộc giao tranh dữ dội trong trận tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột của Quân giải phóng trong các ngày 10 và 11/3/1975, có ý nghĩa chiến lược của trọng đối với chiến dịch Tây Nguyên, góp phần làm nên đại thắng mùa xuân 1975. Tượng đài có kết cấu liên hợp, ở phương thẳng đứng là một trụ cao, phía trên là hình ảnh những người lính cụ Hồ can trường, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay, phía dưới chân đế là mô hình chiếc xe tăng T-54 mang số hiệu 980 lịch sử. Phương ngang là một hình bán nguyệt giăng qua trụ thẳng của tượng đài. Tượng đài mô phỏng cây ná - một thứ vũ khí tuy thô sơ nhưng đã có công rất lớn trong sinh tồn cũng như đánh giặc giữ làng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Tượng đài chiến thắng để tuyên dương công trạng của các lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh đã làm nên chiến thắng vĩ đại này. Ấn tượng nhất có lẽ là hình tượng chiếc xe tăng T-54 mang số hiệu 980, loại xe tăng chủ công trong trận đánh giải phóng năm nào. Đây là chiếc xe tăng rất đặc biệt của Binh chủng tăng thiết giáp. Một xe tăng ghi dấu ấn lịch sử với vùng đất Buôn Ma Thuột, lần lượt do hai vị tướng, Tư lệnh của Binh chủng Tăng thiết giáp và cũng là hai văn nghệ sĩ tiêu biểu của quân đội cầm lái. Đó là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng và Thiếu tướng Hoàng Trung Kiên. Thời điểm năm 1975, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng, nguyên là Đại đội trưởng Đại đội xe tăng 9, Trung đoàn 273, đã xung phong chỉ huy xe tăng 980 dẫn đầu đội hình thọc sâu của trận đánh, làm nên những chiến tích vẻ vang. Ngã 6 Ban Mê hôm nay là nơi tập trung của nhiều địa điểm tham quan hấp dẫn như Khu chợ đêm, Nhà thờ Chính Tòa, Nhà Văn hóa tỉnh, Bưu điện tỉnh và nhiều địa điểm vui chơi, giải trí khác... Trời chiều thoáng se lạnh, nắng vàng rỡ trên tượng đài, trên những công trình kiến trúc đô thị của khu vực trung tâm. Trong tâm trí tôi hiện lên những vần thơ của Nguyễn Thuỵ Kha cũng như tôi một chiều trở lại Ban Mê, bên Ngã 6 nhiều luyến thương nà: “từ ký ức xưa mây khép lửa nồng/ cô đọng khối tượng đài Ngã sáu/ sao qua vãng cứ thì thầm mách bảo/ em ngủ yên nơi những sóng đồi”. Ngã 6 Ban Mê, nơi lịch sử lắng đọng, nơi chứng kiến tiến trình đô thị hoá, hiện đại hoá của thành phố cao nguyên.
Từ Ngã 6, theo sự chỉ dẫn của ông chủ quán cafè, tôi đi về phía Trung tâm văn hoá tỉnh Đắk Lắk gần đó để tìm cây Kơnia cổ thụ. Khi ở trong buôn H’Ring, Kô Tim cho tôi một nắm hạt bảo là hạt Kơnia, “Anh ăn đi, ngon lắm, đến loài sóc, chuột còn thích nữa là”. Tôi đưa vào miệng nắm hạt rang, thơm bùi, mùi như lạc nhưng đượm hơn, béo hơn, nuốt xuống cổ cảm giác như nuốt cả đại ngàn thao thiết. “Ở Ea H’Đing không có cây Kơnia, phải sang tận Ea Kueh mới có, gần chỗ thác 9 tầng ấy”, Kô Tim nói. Nhưng rồi công chuyện bận bịu, đường xa, tôi vẫn chưa thoả cái ý ngồi dưới gốc cây Kơnia nghe gió hát. “Trời chiều mẹ lên rẫy thấy bóng cây kơ nia/ Bóng tròn che lưng mẹ về nhớ anh mẹ khóc” chẳng phải nhà thơ Ngọc Anh đã viết vậy sao. Cây Kơnia trong Nhà văn hoá tỉnh kia rồi, lừng lững và cô độc giữa bê tông, cốt thép. Cây cao bằng toà nhà 4 tầng, nắng dọi lung linh, cành lá đương rì rào theo gió. Kơnia có buồn không khi một mình sót lại giữa phố thị, xa đất đỏ, xa nương rẫy, xa buôn làng, xa nắng gió trời xanh cao nguyên. Kơnia còn không những thần linh trú ngụ, những linh hồn đã khuất. Bóng mát thôi che chở những mùa rẫy màu tươi tốt. Nhưng Kơnia, bốn mùa không thay lá, luôn một màu xanh thủy chung, bất khuất, trơ gan cùng tuế nguyệt, phong ba, bom đạn. Cành lá như những cánh tay chắc khoẻ, gân guốc chạm vào trời xanh, chạm vào lòng phố núi chiều buông và cả lòng tôi đầy kính ngưỡng.
Chuông điện thoại reo. Nhà xe Ngọc Thông đi Huế đã gọi. Mọi sự đã thành. Tôi lên xe, rời bóng cây Kơnia, rời Ngã 6 Ban Mê diễm lệ, hào hùng. Sau khi trả xe cho chị Mai rồi bắt grab ra điểm đón. Tôi và chú Lam đi bộ trên vỉa hè, ba lô mỗi người đều dắt 3-4 ống cơm lam khiến người đi đường ai cũng nhìn. Cơm lam của buôn H’Ring sẽ theo chúng tôi về Huế, sẽ theo chúng tôi mãi trong những câu chuyện về xứ cao nguyên tươi đẹp, mến khách. Xe lăn bánh, bụi đỏ cuộn lên giữa hoàng hôn tưởng chừng làm hồng những ráng mây chiều huyền hoặc trên đồi cao. Tiếng chiêng xa xôi bập bùng tạm biệt ngân dài trong trí tưởng. Cao nguyên thần thoại của Đam San ngực trần vạm vỡ nâng cánh mặt trời, của sức mạnh đạp nghiêng núi đồi Xinh Nhã vẫn còn đây, nồng đượm như ly rượu mừng hạnh phúc Lãm và H’Met trong buôn H’Ring nhiều mộng ước tinh khôi.
Lê Vũ Trường Giang
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0